TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG QUỲNH XUÂN

https://quynhxuan.gov.vn


Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân

ĐẢNG ỦY – UBND- UBMTTQ PHƯỜNG QUỲNH XUÂN










LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ
VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG QUỲNH XUÂN





NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG 2014
Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân
BAN CHỈ ĐẠO
 
Đ/c CAO XUÂN THẮNG
Bí thư, Chủ tịch HĐND phường - Trưởng ban
Đ/c: HỒ VĂN ÁNH
Phó Bí thư trực đảng - Phó Trưởng ban
Đ/c VŨ VĂN TỪ
Phó Bí thư, Chủ tịch UBND phường - Ban viên
Đ/c: NGUYỄN ĐÌNH THỤ
UVBTV, Chủ tịch MTTQ - Ban viên
 
                                       BAN SƯU TẦM TƯ LIỆU
 
          Đ/c: Hồ Văn Ánh, Phó Bí thư trực đảng - Trưởng ban
          Đ/c: Nguyễn Đình Thụ, UVBTV, CT MTTQ phường - Phó ban
          Đ/c: Nguyễn Cảnh Trứ, UVBCH, PCT HĐND phường - Ban viên
          Đ/c: Nguyễn Xuân Mậu, UVBCH, PCT UBND phường - Ban viên
Đ/c:Nguyễn Đình Hanh,UVBCH, Phó Chủ tịch UBND phường - Ban viên Đ/c: Vũ Thanh Nhuận, UVBCH, CT Hội CCB phường - Ban viên
          Đ/c: Nguyễn Thị Oanh, UVBCH, CT Hội LH Phụ nữ phường - Ban viên
          Đ/c: Đậu Xuân Quỳnh, UVBCH, CT Hội Nông dân phường - Ban viên
          Đ/c: Nguyễn Công Huyên, UVBCH, UVUBND phường
          Đ/c: Hồ Văn Bình, UVBCH, Văn phòng Đảng ủy - Ban viên
          Đ/c: Hoàng Quang Vinh, UVBCH, CC Văn hoá Xã hội - Ban viên
          Đ/c: Nguyễn Thị Xuân, UVBCH, Bí thư Đoàn phường - Ban viên
          Đ/c: Lê Hữu Kiên, UVBCH, CN HTX Đại Liên - Ban viên
          Đ/c: Đậu Đức Nhung, UVBCH, CN HTX Đại Xuân - Ban viên
          Đ/c: Đinh Xuân Thắm, Hiệu trưởng trường THCS Quỳnh Xuân-Ban viên
          Đ/c: Cao Trọng Thường Trạm trưởng Trạm y tế- Ban viên
          Đ/c: Trần Đức Truyền, cán bộ huyện hưu trí - Ban viên
          Đ/c: Nguyễn Đình Dung, nguyên Thường vụ Trực Đảng - Ban viên
 
BIÊN SOẠN
QUÁCH HỮU ĐĂNG (chủ biên)
VĂN QUYẾT
Thẩm định Ban Tuyên giáo Thị Ủy Hoàng Mai
 
 
 
LỜI NÓI ĐẦU
          Vân Tụ xưa là địa phương có lịch sử phát triển lâu đời. Trải qua hàng ngàn năm, các thế hệ sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất này đã không ngừng vươn lên để vượt qua mọi trở ngại của thiên nhiên và những biến động của xã hội, tạo dựng nên xóm làng trù phú.
          Cách mạng tháng Tám thành công, tiếp đến là 2 cuộc kháng chiến vĩ đại chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và nhân dân phường Quỳnh Xuân đã phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, đóng góp một phần đáng kể sức người, sức của vào sự nghiệp thống nhất nước nhà, thu giang sơn về một mối. Ngày nay, trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, Quỳnh Xuân là một trong những điểm sáng, năng động của Thị xã Hoàng Mai và tỉnh Nghệ An được Trung ương Đảng ghi nhận.
           Nhằm giúp cho các thế hệ con người Quỳnh Xuân hôm nay và mai sau hiểu được lịch sử của quê hương, thấy được công tích của các bậc tiền nhân trong việc tạo dựng lên vùng đất Quỳnh Xuân trù phú như ngày hôm nay, trước đây cuốn: "Quỳnh Xuân xưa và nay" (năm 1991) đã được dày công nghiên cứu, biên soạn và xuất bản. Nhưng cuốn sách chưa khái quát được tầm vóc của  mảnh đất “địa linh, nhân kiệt". Qua đóng góp, cung cấp thêm tư liệu của các bậc cao niên, các đồng chí nguyên là bí thư, chủ tịch xã qua các thời kỳ và các ý kiến đóng góp từ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Đảng Ủy, UBND, UB MTTQ phường ra Nghị quyết về việc: "Tiếp tục, sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, xuất bản lịch sử Đảng bộ và nhân dân phường Quỳnh Xuân". Đến nay, cuốn "Lịch sử Đảng bộ và nhân dân phường Quỳnh Xuân" đã được hoàn thành. Cuốn sách phản ánh khá đầy đủ quá trình hình thành, xây dựng và phát triển của vùng đất Quỳnh Xuân từ khi có làng, xã cho đến nay. Từ đó, khơi dậy lòng tự hào và nêu cao trách nhiệm của mỗi người con Quỳnh Xuân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
          Để làm nên lịch sử có sự chung lưng đấu cật của nhiều thế hệ nối tiếp nhau và viết sử cũng là công việc gian nan, vất vả và chứa đựng tâm huyết của rất nhiều người thông qua đóng góp tư liệu, toạ đàm, hội thảo, bổ sung tư liệu... Chúng tôi rất cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Tuyên giáo Huyện Ủy, Thị ủy cùng các đồng chí cán bộ lão thành và toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Phường Quỳnh  Xuân.
Do hạn chế về tư liệu cùng nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác, cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong bạn đọc gần xa góp những ý  để cuốn sách hoàn thiện hơn sau những lần tái bản.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Quỳnh Xuân, ngày   tháng    năm 2015
                                                                  
 
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ CON NGƯỜI QUỲNH XUÂN
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
       1. Vị trí địa lý
       Phường Quỳnh Xuân thuộc thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, có tọa độ địa lý từ 1901130 đến 19013’00 vĩ độ Bắc, 10504200 đến 1050430 kinh độ Đông, cách thị xã Hoàng Mai khoảng 5 km về phía Bắc. Phía Bắc tiếp giáp với phường Mai Hùng qua dãy núi “Nhà nước”; phía Đông tiếp giáp với xã Quỳnh Liên có sông Mai Giang làm ranh giới tự nhiên, phía Nam qua các cánh đồng Chạng Bảy, Trạm Chà, nông trường Trịnh Môn; phía Tây men theo dãy núi Tùng Lĩnh giáp các xã Quỳnh Tân, Quỳnh Văn một thời chung lưng đấu cật xây dựng quê hương.
       Phường có tổng diện tích tự nhiên 1.582 ha, nằm trong vùng bán sơn địa, là một trong những địa phương có nhiều thế mạnh trong việc phát triển nền kinh tế đa dạng và phong phú.
       2. Địa chất, địa hình
       Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu về cấu tạo địa chất ở nhiều địa điểm thuộc huyện Quỳnh Lưu và ở Quỳnh Xuân cho thấy: địa hình của phường được hình thành qua một quá trình kiến tạo địa chất lâu dài và phức tạp bởi cách ngày nay khoảng 4-5 ngàn năm, Quỳnh Xuân là một vùng vịnh nửa kín, biển nông, nước ấm và lặng gió. Nhưng sau nhiều đợt “biển tiến”, “biển lùi” mà dấu vết còn sót lại cho đến ngày nay là các ngấn sóng in hằn trên các sườn núi đá phía Đông của lèn Chùa với độ cao so với mặt nước biển là 80 m và các hòn lèn, hòn đảo nhỏ như: Cồn Điệp (Cồn Long – Sơn Hải), lèn Làng Trong, lèn chùa Bát Nhã v.v đã tạo nên một Quỳnh Xuân như ngày hôn nay.
       Quỳnh Xuân nằm trong vùng bán sơn địa, tiếp giáp giữa hai vùng đồi núi và đồng bằng ven biển nên địa hình khá phức tạp. Diện tích đồi núi chiếm 3/4 diện tích đất đai toàn xã tạo nên những vòng cung ôm lấy các thôn xóm theo hai phía ven biển. Cụ thể: Dọc theo đường Quốc lộ 1A về phía Tây là các dải đồi cao hơn 150 mét thuộc dãy núi Tùng Lĩnh và chạy về phía Đông theo đường liên xã xuống Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng là dãy lèn chùa Bát Nhã với các dải đồi Mù U, Rú Bé, Rú Bệp… Ngoài hai dãi núi lớn kể trên còn có một số lèn đá như: Lèn Chùa, lèn Làng Trong, lèn Húc Tri, Lèn Thôn, Lèn Cau... Lèn chùa Bát Nhã sừng sững chắn ngang phía Bắc của vùng đồng bằng ven biển huyện Quỳnh Lưu cung cấp lượng đá vôi lớn cho nhân dân trong và ngoài xã để xây dựng nhà cửa, nung vôi, cải tạo đồng ruộng. Trong lèn chùa Bát Nhã có nhiều hang động đẹp như: Hang Vua, Hang Cá, Hói Vò, Hói Vàng, Hói Cỏ v.v…Hang Vua(1) rộng, sâu có nước và cá sinh sống, cửa hang hướng về phía Nam khá hẹp chỉ một người đi lọt (ngày nay, do nhân dân khai thác đá nên cửa của các hang trên đã bị lấp). Hang Cá có khe nước chứa nhiều hàm lượng vôi và các chất hữu cơ khác chảy quanh năm ra đồng ruộng, là nguồn nước quan trong để sản xuất, phục vụ khử chua và cải tạo đồng ruộng ở Quỳnh Xuân.
       Nhìn chung địa hình phường Quỳnh Xuân có dạng thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Mức độ chênh lệch là 50 tạo nên địa hình bậc thang từ Tây - Bắc đến Đông - Nam, địa hình đó đã tạo cho xã hai dạng đất canh tác: ruộng bậc thang tập trung vùng Bắc và Tây Bắc giáp Quỳnh Tân và Mai Hùng, dạng thấp trũng ở phía Đông Nam giáp nông trường Trịnh Môn. Cả hai dạng địa hình trên đều chứa đựng những yếu tố bất lợi trong sản xuất nông nghiệp. Do địa hình phức tạp đòi hỏi việc bố trí mùa vụ, cơ cấu cây trồng và áp dụng các giống cây cho phù hợp với tính chất của đất ở từng vùng khác nhau. Đồng thời phải thường xuyên tăng cường các biện pháp cải tạo đồng ruộng, hoàn chỉnh hệ thống bờ vùng, bờ thửa, hệ thống kênh mương tưới, tiêu tăng khả năng cung cấp nước cho đồng ruộng.
       3. Khí hậu
       Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, tổng nhiệt có năm trên 85000C. Nhiệt độ trung bình 230C. Lượng mưa xấp xỉ đạt 1.800 mm/năm và phân bố không đều theo thời gian trong năm. Thời tiết theo hai mùa rõ rệt. Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Tháng giêng là tháng lạnh nhất, có những năm nhiệt độ tháng giêng xuống thấp hơn 70C. Nhiệt độ trung bình cả mùa lạnh khoảng 180C. Mùa lạnh là mùa ít mưa, lượng mưa trung bình hàng tháng không quá 100 mm. Số ngày mưa cũng không nhiều. Đối với sản xuất nông nghiệp là mùa hạn thiếu nước. Nhờ đặc điểm địa hình Quỳnh Xuân được che chắn từ hai phía Tây và Bắc nên lượng mưa có cao hơn các xã ven biển như Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng. Đặc điểm nổi bật là gió mùa Đông, mưa phùn và rét đậm. Thời gian rét có thể kéo dài hàng tuần kết hợp với khô hanh. Ban ngày tuy trời nắng hanh heo nhưng về đêm nhiệt độ có thể xuống thấp dưới 100C kết hợp với những đợt mưa làm cho cây trồng và gia súc lâm bệnh, chết. Rét và hạn hán kéo dài hàng hai ba tháng, gây khó khăn nghiêm trọng cho vụ Đông Xuân. Trước đây, một số bài vè dân gian đã nói đến thời tiết, khí hậu đối với sản xuất mùa vụ ở Quỳnh Xuân.
          “Vụ mùa mất ló (lúa)                         Hay là: “Khoai lông trồng tháng một
          Ngó (nhìn) đến vụ khoai                                   nắng suốt tháng ba
          Không may trời làm trận nắng dai (dài)           dân xã bàn hòa
          Vụ khoai mất sạch”                                         Cầu mưa, cầu gió”
       Tháng tư chuyển tiếp từ mùa mưa sang mùa nóng, thời tiết ấm dần lên. Nhưng tháng 4 vẫn có những đợt rét “Nàng Bân” lạnh tím da, tím thịt. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 9. Tháng 7 (âm lịch) là tháng nóng nhất, nhiệt độ có ngày lên tới 400C. Nhiệt độ trung bình trong mùa giao động trong khoảng 25-280C. Ngày và đêm nhiệt độ có thể chênh lệch nhau từ 5-70C. Đây cùng là mùa mưa nhiều, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Tháng 4 thường có mưa tiểu mãn. Đây là những trận mưa đầu hạ có tác dụng tạo ra nguồn nước cung cấp cho cây trồng trong giai đoạn phát triển. Từ tháng 5 đến tháng 9 là thời kỳ xuất hiện các cơn giông nhiệt đới do sự di động của khí quyển hoặc của đối lưu nhiệt. Vùng đồi núi phía Tây - Bắc chắn hơi nước của biển tràn lên tạo nên những trận mưa nhỏ. Do vậy, vùng đồi núi phía Tây- Bắc mưa nhiều hơn vùng thấp trũng ở phía Đông Nam. Sang tháng 6, 7 do ảnh hưởng khô nóng của gió Lào tăng lên nên lượng mưa giảm xuống rõ rệt. Lượng mưa không bù được lượng hơi nước bốc lên quá lớn. Đây là thời kỳ hạn hán của mùa vụ, nên ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, mùa màng.
       Qua thời kỳ khô nóng, tiếp đến là thời kỳ bão lũ từ tháng 8, 9 đến 10, tạo nên những trận mưa lớn kèm theo giông tố. Nhiều cơn mưa trút nước xối xả gây nên lũ lụt, ngập úng hư hại hoa màu, mùa vụ. Năm 1983, bão cùng với sóng biển tràn vào phá đê, dâng nước mặn gây thiệt hại rất lớn cho nông nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Những năm gần đây, bão, lũ xẩy ra thất thường gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
       Quỳnh Xuân nằm trong vùng khí hậu chung của Nghệ An nhưng có vĩ độ cao hơn các huyện phía Nam nên có một số điểm riêng: ít chịu ảnh hưởng của gió Lào, mùa hạ kéo dài, mưa đến muộn gây nên sự chậm trễ trong việc cấy lúa mùa nhưng thuận lợi trong việc cấy lúa chiêm xuân và việc gia tăng vụ hè thu, đủ thời gian để chăm sóc, tránh được sự ảnh hưởng do bão lụt. Lượng nhiệt và lượng mưa quanh năm dồi dào, rất thuận lợi cho sự phát triển cây trồng. Sự phân hóa khí hậu theo mùa tạo điều kiện cho phường hình thành cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng đa dạng và phong phú.
       4. Mạng lưới thủy văn
       Là phường có nhiều đồi núi, độ dốc khá lớn nên tạo cho xã có hệ thống sông suối, khe, rãnh dày đặc. Phía đông của phường có sông Mai Giang chạy dọc làm ranh giới tự nhiên với xã Quỳnh Liên đổ ra phía Bắc Lạch Cờn và phía Nam Lạch Quèn. Kênh Vực Mấu, kênh tưới 19, kênh Nguyễn Văn Bé, kênh Làng Cũ, Cầu Hủ, v.v… chiếm trên 44 ha. Bên cạnh đó, phường còn có một số diện tích đầm lầy nước mặn, trước đây nhân dân sử dụng để trồng cói (22 ha). Diện tích còn lại không trồng cói chuyển sang nuôi tôm (21 ha). Ngoài ra, còn có 70 ha ao hồ nằm về phía Đông gồm: Hồ Cá, Hói Đăng, Hói Bù v.v. .
       Đặc điểm thời tiết, khí hậu, thủy văn đã ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ nước của phường. Mùa khô lượng nước nhỏ, các tháng 2, tháng 3 thường là thời kỳ khô hạn, lưu lượng dòng chảy trong mùa đạt từ 2 – 2,5% lưu lượng dòng chảy cả năm. Ngược lại mùa mưa lũ thường vào tháng 7 đến tháng 9, lưu lượng dòng chảy đạt cực đại (khoảng 20%) tổng lượng nước cả năm. Đây là thời gian thừa nước, phường phải có biện pháp tiêu, thoát nước chống ngập úng gây thiệt hại cho mùa màng.
       Quỳnh Xuân có nguồn nước ngầm dồi dào độ sâu không lớn lắm. Độ sâu nước ngầm liên quan chặt chẽ với cấu trúc địa chất, địa hình và cũng thay đổi theo mùa rõ rệt. Vùng Quỳnh Tụ, Xuân An, Xuân Hòa nước ngầm nằm rất nông (dao động từ 0,5 - 2m). Vùng đồi núi phía Bắc mực nước ngầm sâu hơn, dao động từ 5-10m. Nước ở các giếng đào có độ khoáng thấp, dùng làm nước sinh hoạt rất tốt. Một số vùng như Làng Mới, xung quanh lèn chùa Bát Nhã, lèn Húc Trí nước cũng có hàm lượng can xi, đá vôi khá cao.
       Nguồn nước dồi dào nhưng phân bố không đều trong năm, gây nên hiện tượng thiếu, thừa nước trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế, phường cần chú trọng công tác thủy lợi kết hợp cơ cấu muà vụ, cơ cấu cây trồng cho phù hợp với sự thay đổi của thủy văn; có biện pháp khắc phục hạn hán, ngập úng và khai thác được nguồn nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng Đảng ủy, chính quyền phường cần đầu tư đúng mức.
       5. Đất đai
       Phường Quỳnh Xuân có 683 ha diện tích đất nông nghiệp, trong đó có 610 diện tích đất canh tác(2). Đất là tư liệu sản xuất vốn quý nhất trong nông nghiệp. Do đặc điểm cấu trúc địa chất, tính chất phức tạp của địa hình, khí hậu, thủy văn và sự tác động mạnh mẽ của giới sinh vật đã tạo cho Quỳnh Xuân nhiều loại đất với những đặc điểm khác nhau. Về cơ bản đất đai được chia thành 3 khu vực lớn:
       Vùng 1: Thuộc khu vực phía Bắc giáp hai xã Quỳnh Tân và phường Mai Hùng. Đây là đất canh tác nằm trong dạng thung lũng giữa các dãy đồi cao hoặc trên sườn dốc thoải, đất dốc tụ, thành phần cơ giới nhẹ, địa hình bậc thang, nên dễ bị xói mòn, rửa trôi, chế độ nước tưới phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, phù hợp với các loại cây trồng như sắn, đậu, khoai , ngô...
       Vùng 2: Thuộc dải đất dài phía Bắc Kênh tưới 19, đất có địa hình dốc thoải hơn. Ruộng bậc thang nhưng mức độ chênh lệch ít. Nhờ Kênh 19 chảy qua, nên chủ động việc tưới, tiêu nước, phù hợp để trồng lúa. Một số cánh đồng như: Cồn Vạng, Rộc Sâu, Cồn Mối, Đồng Cửa, Cồn Chùa,v.v... có khả năng chủ động tưới tiêu nước, thuận lợi thâm canh, tăng vụ.
       Vùng 3: Thuộc dải đồng bằng nằm ở phía Nam và Đông Nam Kênh tưới 19, thuộc các cánh đồng: Làng Cũ, Đồng Bệp, Đồng Chào, Đại Xuân, Đồng Sào v.v… ở phía Nam và Tây - Nam của nông trường Trịnh Môn đều có dạng địa hình thấp trũng. Cuối vụ mùa thường bị ngập úng, chịu nhiều ảnh hưởng của nước mặn, đất đai bị chua phèn. Đây là loại đất có thành phần cơ giới nặng, qua tầng canh tác sâu 13-15cm là tầng xác súc vật, gốc tích của đầm, biển cũ, khi bị ngập úng lâu ngày gây độc hại cho hoa màu. Vào mùa khô hiện tượng bốc mặn, bốc phèn xẩy ra rõ nét làm chết lúa đại trà. Đây là khu vực bất lợi nhất trong sản xuất nông nghiệp. Muốn sử dụng tốt phải thường xuyên cải tạo đất, rửa trôi các chất phèn, mặn bằng cách bón vôi liều lượng cao kết hợp với trồng nhiều loại cây chịu phèn, chịu mặn. Hiện nay, một số cánh đồng đã được nhân dân cải tạo thành ao hồ nuôi tôm, thả cá, lúa - cá.
       Ngoài ra, 78% diện tích đất tự nhiên của phường là đất peralít phát triển trên đất sa phiến, đá cát tập trung trên các dãy núi: Tùng Lĩnh, Mù U, núi Bé, núi Bệp,v.v... có màu nâu đỏ đến vàng đen. Do phân bố trên địa hình nghiêng, đất dễ bị xói mòn, rửa trôi.
       Trước những khó khăn và phức tạp của địa hình, đất đai, trong những năm qua,công tác cải tạo đất ở Quỳnh Xuân đã tiến hành đồng bộ và đã thu được kết quả đáng kể. Hệ thống kênh mương tưới tiêu và bờ vùng, bờ thửa kiên cố nên khả năng chủ động nước cho mùa vụ được đảm bảo, góp phần thuận lợi để nhân dân đầu tư thâm canh các loại cây trồng cho năng suất cao..
          6. Tài nguyên thiên nhiên
       Khoáng sản: Loại khoáng sản có trữ lượng lớn nhất của phường là đá vôi, tập trung chủ yếu ở lèn chùa Bát Nhã. Sản lượng khai thác mỗi năm từ 3.000 – 5.000m3 đá hộc. Nhờ có nguồn đá vôi tại chỗ dồi dào nên hàng năm, các lò vôi trên địa bàn phường sản xuất được từ 500 – 700 tấn. Với nguồn đá vôi có trữ lượng lớn đã mở ra một số ngành nghề thủ công như: khai thác đá, nung vôi, xây dựng v.v….
       Cát xây dựng rất sẵn và phân bố thành từng dải ven sông, ven suối từ phía Đông Nam lên tới phía Bắc của phường. Cát ở đây hạt mịn, làm nguyên liệu rất tốt cho ngành xây dựng .
       Ở Quỳnh Xuân nguồn đất sét dùng để sản xuất gạch, ngói cũng có trữ lượng lớn, phân bố ở phía Nam và Đông - Nam nông trường Trịnh Môn.
       Rừng: Cách đây trên vài trăm năm, núi rừng ở Quỳnh Xuân còn rậm rạp, tập trung ở núi Tùng Lĩnh, Mù U, v.v… lan ra tới đồng bằng với nhiều rừng cây gỗ quý hiếm như: lim, sến, táu …và bạt ngàn rừng thông xanh. Trong rừng có nhiều loài động vật quý: hổ, báo, hươu, nai, khỉ…sống thành từng đàn.
       Ngày nay, dân số phát triển, họ đã tiến hành khai hoang lập làng, phá rừng, lấn biển và một thời gian dài chiến tranh đã làm cho diện tích rừng nhanh chóng bị thu hẹp. Các loại cây quý ngày càng cạn kiệt. Động vật cũng bị săn bắn hoặc xua đuổi đi vùng khác. Những năm đổi mới, đất rừng được giao cho các hộ dân nhận để bảo vệ và khoanh nuôi nên rừng ngày càng xanh tươi trở lại, đảm bảo được nhu cầu về sinh thái, môi trường.
       II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÓM
       Phường Quỳnh Xuân ngày nay vẫn còn lưu lại một số cồn sò, cồn điệp ở đội 23 (nay là khối 8), rú Bệp, lèn Chùa… đó là những dấu tích của nền văn hóa thuộc hậu kỳ đồ đá cũ mà khoa học khảo cổ gọi là “nền văn hóa Quỳnh Văn” xuất hiện cách đây trên dưới 5.000 năm.
       Các di chỉ của nền văn hóa Quỳnh Văn còn phân bố rải rác ở các địa phương khác như: Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Tiến, Quỳnh Hoa, Quỳnh Minh, Quỳnh Sơn, Quỳnh Bảng, Quỳnh Hậu… chạy dọc suốt một dải từ Quốc lộ 1A ra đến gần biển bao quanh lấy vùng ruộng nước hoặc đầm lầy ven biển.
       Các bộ lạc Quỳnh Văn (trong đó có cư dân cổ đại sống trên đất Quỳnh Xuân) lúc bấy giờ đã biết săn bắt và hái lượm. Một số hang động thuộc dãy núi đá vôi trên địa bàn Quỳnh Xuân như: Hang Vua, Hang Chùa (cạnh di chỉ Rú Bệp) có thể xưa kia là nơi cư trú của các cư dân cổ đại – tổ tiên lâu đời của người Quỳnh Xuân hôm nay.
       Có thể khẳng định: Tiếp sau các bộ lạc Quỳnh Văn trên địa bàn Quỳnh Xuân luôn luôn có các thế hệ con người đến sinh sống và mở mang. Cho đến nay, Quỳnh Xuân còn có nhiều địa danh gọi là “Kẻ” như: Kẻ Hà, Kẻ Hủ, Kẻ Lau, Kẻ Vệ, Kẻ Chào… đó là tên gọi rất xưa của các vùng cư dân cổ đại trước khi các làng xã, thôn, giáp hình thành. Truyền thuyết dân gian ở địa phương kể rằng: “người Kẻ Hà xưa kia to cao như “người khổng lồ” “ngón chân cái của họ chìa (choãi) ra không giống như chúng ta ngày nay. Đàn ông, đàn bà vùng này nổi tiếng là độc ác, họ thường đánh đập và khống chế dân các vùng lân cận. Về sau, do phạm tội giết người, cướp của cho nên bị quan, quân nhà vua triệt hạ, số còn sót lại phải sống phiêu bạt khắp nơi…”.
       Cách Kẻ Hà không xa là Kẻ Chào, vùng sớm được khai phá bởi công lao của họ Lê, họ Hồ, họ Trần, họ Nguyễn. Đến thế kỷ thứ XIX, đây trở thành một thôn sầm uất gọi là “Bất Hủ”, “dân cư ở đông đúc bên bờ đầm”(1. Từ Kẻ Chào công cuộc khai phá đất đai dần dần lan tỏa ra nhiều vùng khác.
       Làng Quỳnh Tụ được khai phá và mở rộng thêm vào thời Hậu Lê, Gia phả dòng họ Lê Hữu cho biết: Lê Hữu Trạch gốc ở Đông Sơn (Thanh Hóa) đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng Vân Tụ (Quỳnh Tụ) vào khoảng thời đầu Hậu Lê đến nay có trên 25 đời (khoảng hơn 600 năm. Ông đã tổ chức khai phá được hơn 50 mẫu đất (nay là cánh đồng Càn, đồng Cheo, đồng Chạng Hùng, Chạng Bảy). Con cháu đời sau của ông là: Lê Thiếu Khanh, Lê Tiến Vinh, Lê Tiến Tước "giỏi văn - võ" nên được làm quan triều nhà Lê và được cử đi sứ nước Tàu (Trung Quốc). Trong một lần đi sứ, hai ông Lê Tiến Vinh, Lê Tiến Tước lấy được giống thông quí đem về trồng cạnh hai ngôi mộ cha, mẹ trên dãy núi Tùng Lĩnh. Giống thông này phù hợp với đất đai và khí hậu nên phát triển rất nhanh lan tỏa ra cả vùng.
       Qua nhiều thế hệ cần cù lao động, không quản ngại khó khăn gian khổ, vất vả, con cháu dòng họ Lê tiếp tục khai phá đất đai, quai đê, lấn biển ngăn mặn, thau chua, rửa mặn, ngọn hóa, mở rộng diện tích tạo nên Đồng Vàn và Đồng Trạch. Con đập ngăn mặn đến nay vẫn được nhân dân Quỳnh Xuân gọi là đập Họ Lê. Trong họ có ông Lê Đôn đậu Tú tài. Ông đã tổ chức cho dân làng Quỳnh Tụ đắp đập chắn nước mặn, cải tạo thêm được 16 mẫu ruộng giáp giữa Hói- Nồi và Làng Đồng. Nguyễn Đình Dần (dòng dõi của Cương quốc công Nguyễn Xí) từ Nghi Hợp (Nghi Lộc) đến mở mang khai phá vùng đất dọc sông Mai Giang đến núi Tùng Lĩnh với diện tích canh tác trên 5 mẫu (nay nhân dân gọi là cánh đồng Dần).
       Ngoài ra, còn có nhiều dòng họ khác cũng có công trong việc khai phá vùng đất Quỳnh Xuân bởi tại Đền Xuân Hòa, dựng năm Minh Mệnh (1830) có tấm bia đá ghi lại tên 12 vị triệu cơ là: Đậu Duy Kiều, Lê Thiện Tích, Hồ Hữu Định, Hồ Đoàn Lộc, Võ Phúc Tâm, Hồ Phúc Tuyên, Lê Đình Bảng, Nguyễn Duy Trung, Hoàng Đình Luận, Hồ Đình Vỹ, Trần Đức Tường và Hồ Thắng Toàn. Quá quá trình sinh sống, lao động, họ đã khai hoang lấn biển, đắp đập, san đồi mở rộng diện tích canh tác, góp công sức, trí tuệ tạo lập nên vùng đất giàu đẹp hôm nay.
          III. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
          1. Sản xuất nông nghiệp
          Qua quá trình lao động sáng tạo, họ đã biết săn bắt thú rừng, chim muông để ăn thịt. Quần tụ thành lập xóm làng, lấn sông, lấn biển, khai hoang mở rộng diện tích để canh tác nông nghiệp, biết lợi dụng thời tiết, chọn lọc các giống cây để gieo trồng phù hợp với đất đai.
          Trải qua hàng ngàn năm, con người nơi đây đã hình thành nên đức tính: thật thà, sống thủy chung, “tối lửa, tắt đền có nhau”, cần cù, chịu thương, chịu khó, ăn no, mặc bền và lấy sản xuất nông nghiệp làm nghề chính.
          Trong quá trình lao động sản xuất, cư dân Quỳnh Xuân đã đúc rút được kinh nghiệm, tuyển chọn các giống lúa vừa chịu được hạn hán, gió bão, thích ứng với đất đai vùng bán sơn địa như: lúa Chằng, lúa Cứng, lúa Ri; các loại nếp Cái, nếp Chồi Đồi thơm ngon. Công cụ lao động chủ yếu là cày chìa vôi, dao, cuốc, liềm sau có thêm cày mỏ gang, bừa chém...; phân bón chủ yếu là phân xanh, phân chuồng, phân dơi… Trong quá trình sản xuất, nhân dân đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu: "không nước, không phân, chuyên cần vô ích".
          Cùng với quá trình khai hoang, cải tạo mở rộng diện tích, kỹ thuật canh tác lúa có nhiều tiến bộ. Nắm vững, am hiểu chất đất của từng xứ đồng, đặc điểm thời tiết từng vụ, từng năm... người dân chú trọng thâm canh, tăng vụ, lựa chọn cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và phù hợp với đất đai cũng như khả năng đảm bảo tưới tiêu ở từng vùng, từng khoảnh.
          Do diện tích rừng núi lớn, cây cối rạm rạp, thú rừng nhiều, “chân voi, móng hổ dẫm đạp, chồng chéo lên nhau" nên ở đây sớm hình thành nghề săn bắt thú rừng, nhiều phường săn xuất hiện. Thời xưa, nghề này được xem là nghề chính của cư dân nơi đây. Hình thức săn bắt chủ yếu săn bắt bằng chân. Khi một người phát hiện thấy con thú xuất hiện ở khu vực nào đó (không phải là loại thú dữ) thì tìm cách loan báo cho dân làng trong làng biết. Lập tức cả làng đổ ra, đến nơi có thú để đuổi, trên tay cầm gậy hoặc dao, mác và đuổi con thú từ đồi nọ qua đồi kia, vừa đuổi vừa bao vây đến khi con thú kiệt sức, không chạy được nữa, họ xông vào lấy đá ném, rồi dùng gậy đập thú, hoặc có khi hò nhau, dùng chó đuổi đến khi con thú bị ép vào một cái rãnh và bắt sống.
          Phường săn được thành lập, người đứng đầu là nam giới, gọi là chủ phường, tập hợp những người ham thích và chịu khó, để tìm lối thú đi, săn phường phải có lưới, chó, khí giới. Ít nhất là:       
          Một bộ lưới gồm 7- 8 tấm. Mỗi tấm thường dài 8-9 mét, rộng 2,5mét, đan bằng sợi gai.
          Một bộ giáo, để mỗi người trong phường có một cây giáo và vài cây mác bảy.
          Một đến hai cái cồng để khi đi săn đánh cồng tin nhau.
          Săn phường được tổ chức khi công việc đồng áng nhàn rỗi, thường là giáp tết hoặc giêng hai.
          Đánh chim là nghề khá phát triển của cư dân Quỳnh Tụ. Trước đây, khi chưa có con đê ngăn mặn từ Kim Lung (Mai Hùng) đến Quỳnh Đôi. Nước mặn từ biển theo sông Hoàng Mai, sông Quèn dâng lên làm ngập một vùng đất rộng lớn. Tại các làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, vùng đất ngập mặn, cây đước, cây sòi, cây mắm... mọc thành rừng, là môi trường thuận lợi để các loài chim như: cò, vạc, cuốc... về đây quần tụ sinh sôi và phát triển.
       Người dân đánh chim bằng cách đặt mồi và cắm que nhựa tự chế xung quanh, chim sa vào dính nhựa. Chim bắt được là thức ăn hàng ngày của người thôn quê.
       2. Các nghề thủ công truyền thống
       Nghề lấy đá, nung vôi
       Nguồn nguyên liệu đá vôi dồi dào và cũng do nhu cầu xây cất các công trình đền, chùa, miếu mạo và nhà ở nên nghề khai thác đá và nung vôi đã xuất hiện khá sớm.
       Nghề mộc
       Cũng là một trong những nghề khá phát triển, có nhiều thợ giỏi. Hai ngôi đền Phùng Hưng (Quỳnh Tụ) và và Xuân Hòa là do các kíp thợ mộc nề ở địa phương thi công chỉ trong vòng 4 tháng là hoàn thành. Các đường xà, cột, cổn, đầu đao… đều được chạm long - ly - quy - phượng, rất tinh xảo.
       Buôn bán:
        Cuối thế kỷ thứ X, Lê Hoàn cho đào kênh Bà Hòa (Thanh Hóa) nối với kênh Son, kênh Xước ở phía bắc Thị trấn Hoàng Mai. Đường thủy từ đó nối dọc Thị - Huyện và nối với 3 cửa lạch (cửa Cờn , cửa Quèn, cửa Thai). Đây là đoạn rất quan trọng của kênh Nhà Lê, có ý nghĩa rất lớn để phát triển kinh tế, chính trị và quân sự trong các triều đại phong kiến. Đường thủy thông thương thuận lợi, kinh tế phát triển nên nhà Lý đã cho dân lập ở vùng Vân Tụ một “thương cảng” gọi là Vân Đồn cảng. Thuyền buôn nhiều nơi trong nước đã ghé vào đây buôn bán, trao đổi hàng hóa(1). Chợ Vân do vậy đã trở thành một trong những chợ lớn, trung tâm của huyện Quỳnh Lưu trong suốt thời Hậu Lê.
        Năm Thiệu Phong thứ 9 (1349), đời vua Trần Dụ Tông, triều đình nhà Trần đã cho lập Trấn quan, Lộ quan và Sát Hải sứ ở Vân Đồn để trông coi việc buôn bán, thu thuế và thuyền bè ra vào ở vùng đất này(2).
       Cũng vì thế mà huyện lỵ của Quỳnh Lưu trong thời Lê và nửa đầu triều Nguyễn vẫn đặt ở vùng Vân Tụ, đến năm 1840, huyện lỵ dời về làng Tiên Yên (xã Quỳnh Bá).
       VI. KIẾN TRÚC
       Với sự xuất hiện của cư dân văn hóa Quỳnh Văn trên địa bàn Quỳnh Xuân cách ngày nay khoảng 5.000 năm đã chứng tỏ vùng đất này là một trong những nơi có bề dày về văn hóa và lịch sử. Nhưng trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều di sản văn hóa vật chất do công sức và trí tuệ của nhiều thế hệ người dân Quỳnh Xuân tạo lập được không còn đến ngày nay. Lỵ sở của huyện Quỳnh Lưu một thời được xây cất quy mô sầm uất trên đất Quỳnh Tụ nay chỉ còn dấu vết nền nhà, móng cột. Chùa Bát Nhã thờ Phật đặt ở Lèn Chùa, được xây dựng đầu thế kỷ XX, qua thời gian, bão tố và có cả nhận thức của con người nên chùa bị phá nhưng nay đã được phục chế trên nền đất cũ.
       Kiến trúc cổ còn sót lại trên đất Quỳnh Xuân này còn lại không nhiều, đó là những di sản văn hóa có giá trị giúp chúng ta hình dung được phần nào về đời sống tinh thần- vật chất của người dân Quỳnh Xuân trong lịch sử. Tiêu biểu gồm:
  1. Đền Phùng Hưng
        Đền Phùng Hưng thờ Bố Cái Đại Vương, được xây dựng trên một gò đất cao. Gò có tên Điệp Lệnh (hay còn gọi là gò Long Hải Sơn) thuộc làng Quỳnh Tụ (nay là khối 8 phường Quỳnh Xuân).  Đền có cấu trúc theo hình chữ tam gồm: thượng điện, trung điện và hạ điện. Tổng diện tích của quần thể kiến trúc này khoảng gần 2 mẫu. Trong đền không ghi niên hiệu xây dựng nhưng dựa vào bài vè làm “tòa Nghi Môn” còn lưu truyền tại địa phương và quan sát cấu trúc của đền chúng ta biết được rằng: đền Quỳnh Tụ là một công trình kiến trúc vào thời Nguyễn (Minh Mệnh cửu niên 1829). Bài vè mở đầu bằng 2 câu:
                   Hoàng triều Minh Mệnh cửu niên
                   Lập điện cầm quyền đổi sắc minh tân
         Đền có 4 tòa. Hậu cung gồm 3 gian nhỏ, đặt linh tọa và bài vị. Hậu cung gắn với trung điện bằng một máng xối. Trung điện gồm ba gian (lớn hơn hậu cung) để đặt hương án và các đồ tế khí cùng tàn, lọng, gươm giáo, bát cửu... (hiện nay cái mất cái còn). Trung điện gắn với tòa ca vũ bằng một máng xối. Tòa ca vũ gồm ba gian hai hồi dài khoảng 15 mét, rộng khoảng 6 mét, cột cao 4,8 mét, đường kính 0,32 mét. Tòa ca vũ cũng đặt hương án, có đôi hạc, bốn ngựa gỗ, 5 kiệu (trong đó 2 kiệu được đưa từ đền khác về).
       Cả ba tòa ít có chạm trổ, chỉ hai khung ở đầu hồi tòa ca vũ có chạm trổ. Khung bên phải, mảng dưới chạm phượng hóa long, mảng trên chạm hoa phù. Khung bên trái, mảng dưới chạm phượng và long- mã phú đồ, mảng trên cũng chạm hoa phù. Còn tất cả được chạm lá đuột ở đầu quá giang, đầu trếnh.
       Điểm đáng chú ý là cửa từ tòa ca vũ đi vào cung điện, các cửa đều thượng song hạ bản. Các ván đều có vẽ các hình trang trí như long mã, long ly, long quy, hoa phù và các hoa lá khác. Chất liệu màu sắc, đường nét, khối hình... không thấy có ở đền nào ở Quỳnh Lưu.
       Tòa nghi môn được làm sau khi trùng tu đền có diện tích hẹp: chiều dài khoảng 10 mét, chiều ngang khoảng 3 mét. Tòa nghi môn cách tòa ca vũ một cái sân nhỏ và hai bức tường bằng gạch xây hai bên. Tòa được thiết kế gồm một gian hai hồi (cao hơn tòa ca vũ). Xung quanh các xà gỗ có chạm trổ công phu phượng, lân quy, hoa phù, cá hóa long, long mã... . .
       Đền có 4 tòa, song không phải là một kiến trúc to lớn với nhiều mảng chạm trổ độc đáo, nhưng với đường nét chạm trổ điêu luyện, các nghệ nhân xưa đã bày tỏ được tấm lòng ngưỡng mộ của nhân dân Quỳnh Xuân đối với người anh hùng cứu nước Bố Cái Đại Vương. Người mà:
          “Hoan nghiệp huy hoàng kinh Bắc Địa
          Thần uy hiển hách trấn Nam thiên”(1)
       Tạm dịch nghĩa:
          Sự nghiệp huy hoàng cứu nước của Phùng Hưng làm kinh động đất Bắc (Trung Quốc)
          Uy danh của Người vang dội cả trời Nam.
       Nhìn tổng thể, đền có cấu trúc bền vững, chắc khỏe, phù hợp với môi trường thiên nhiên. Cột đền tuy không cao nhưng do đền được dựng trên một gò đất cao hơn mặt biển 4-5 m cho nên nhìn từ xa trông ngôi đền rất uy nghi, chững chạc. Điều đó chứng tỏ trình độ thẩm mỹ trong kiến trúc của nhân dân Quỳnh Xuân trước đây đã đạt đến đỉnh cao. Hai cột nanh của cổng ngôi đền xưa kia được dựng bằng các khối đá xanh. Do bão lớn, cây gạo cổ thụ trước đền ngã xuống làm đổ cả hai cột, nhân dân làng Quỳnh Tụ đã tổ chức xây lại bằng gạch, vôi. Hai đôi câu đối khắc trên hai cột trụ ở đền nói lên phong cách và ý chí kiên cường của con người Quỳnh Tụ trong công cuộc khắc chế với thiên nhiên.
          Cao kiên song trụ kình thiên, phong suy bất động,
          Trọng hậu lưỡng cơ trấn địa, vũ đả nan ma.
       Tạm dịch là: Hai cột cao đứng như hai cột chống trời, gió thổi vẫn không lay chuyển; cắm vững trên đất, gió mưa dội mãi không mòn.
       Làng Quỳnh Tụ xưa kia đóng góp tiền, của và công sức để dựng đền Phùng Hưng trên quê hương mình, khi mà sự nghiệp chống giặc phương Bắc do Phùng Hưng phát động chỉ diễn ra ở Sơn Tây và các vùng phụ cận của Tống Bình (Hà Nội), đó là một điều cần có thời gian nghiên cứu. Điều chắc chắn rằng: sự hiện diện của ngôi đền thờ Phùng Hưng chứng tỏ người dân lao động ở Quỳnh Xuân rất ngưỡng mộ Phùng Hưng, vị anh hùng dân tộc vừa có công đánh giặc cứu nước, vừa có tài đánh hổ trừ họa cho dân(2). Việc làng Quỳnh Tụ lập đền thờ Phùng Hưng còn cổ vũ nhân dân địa phương quyết tâm tiêu trừ thú dữ, hổ (khái) có khá nhiều ở địa bàn.
       Ngoài những ý nghĩa lịch sử, đền Phùng Hưng còn là một kiến trúc cổ, một di sản văn hóa cần được bảo tồn và tôn tạo.
  1. Đền Xuân Hòa
       Đền Xuân Hòa cách đền Phùng Hưng 2 km về phía Đông Bắc, ngôi đền có kiến trúc vào thời Nguyễn. Bài vè làm đền Xuân Hòa có những câu:
                   Năm Sửu đẵn gỗ
                   Năm Dần khởi công
                   Bước sang năm Mão mới xong
                   Trung tuần, lục nguyệt thi công dựng đình
          Trước kia, đền Xuân Hòa được lập ra để thờ Cao Sơn, Cao Các. Thần tích của đền và truyền thuyết dân gian ở địa phương cho hay: “Lưu Kiệm, tự là Danh Tiến tiên sinh. Ông quê ở Quỳnh Lưu, là người có sức khỏe, học giỏi, đỗ hương cống đời Lê. Ông được cử đi sứ Ai Lao (Lào) và từng lập mưu giết hổ. Một lần đi qua núi Xước (ở Quỳnh Lập) gặp hổ, ông lập mưu giết được hổ nhưng do hổ quá lớn nên làm ông bị thương. Ông chạy về đến cầu La Man (phường Quỳnh Thiện) thì chết. Dân làng nhớ ơn người đã từng giết hổ để bảo vệ sản xuất, giữ yên cuộc sống cho dân làng, họ đã lập đền thờ ông.
       Về sau, đền Xuân Hòa rước bài vị 12 ông tổ “Triệu cơ” (những người có công khai hoang vỡ đất lập ra làng Xuân Hòa(1) vào thờ trong đền. Hàng năm cứ vào dịp đầu xuân (lễ khai hạ) và Lễ kỳ phúc 11/3 (AL) dân làng Xuân Hòa tổ chức rước bài vị từ đền ra đến Rú Chào (nơi phát tích của các vị) rồi từ đó rước quanh làng trở về đền.
       Đền Phùng Hưng, đền làng Xuân Hòa là những công trình văn hóa thể hiện tấm làng biết ơn của nhân dân Quỳnh Tụ đối với các vị anh hùng đã giúp dân giữ nước, khai phá tạo nên làng xóm, đồng ruộng của quê hương. Hai ngôi đền đã được nhà nước cấp bằng di tich cấp Quốc gia, cần được các thế hệ hôm nay và mai sau gìn giữ và phát triển.
       V. VĂN HÓA, GIÁO DỤC
       1. Văn học dân gian
       Quỳnh Xuân có nguồn văn học dân gian khá đa dạng và phong phú, gồm nhiều loại hình nghệ thuật như:
       Truyện kể, thơ ca, hò, vè. Phần lớn các sáng tác nhằm ca ngợi phong cảnh quê hương, ca ngợi cuộc sống con người:                                              
          Mùa màng phong nậm vui thay                    Tiếng đồn đã đánh (đến)
          Thường trong hạ úc cũng tày đôi ta              Đánh thấu tai vua 
          Xã ta phong cảnh hữu tình                           Vua ban tiền cho, 
          Tả phật hữu thách dưới đình vui thay           Đem về cầm lượt. 
          Rủ nhau lên núi chặt cây                              Liền anh cầm trước        
          Mỗi người hai chuyến vác ngay về lèn          Liền em cầm sau  
          Để ta làm cũi cho kiên (bền)                         Thuận tình với nhau       
          Để hùm vào cho kín                                     Lẽ thần linh giám phước
          Nậu nhất, nậu chín, nậu bảy, nậu ba             May ra có được,   
          Nậu mô cũng tra (đánh) không nậu mô bỏ    “ông” nửa cũng nên.
          Đước sáu “ông” hổ thành cám                      Xã ta được tiếng thiên niên
          Rõ ràng đem về treo ngang                        Được ba cái giếng cũng hơn các làng
          Giữa đình Trung xem thử                             Ba ao, ba giếng rõ ràng  
          “Ông” hổ nào cũng dữ                               Đào sâu, tắm mát cho làng rửa tôm
          Hộc lấy một tiếng                                        Gió nam phất lộn gió nồm
          Người dạt tứ bề                                            Ai về Quỳnh Tụ ăn tôm thì về  
          Ai ai cũng tránh                                           Xã ta đã thuận một bề
          Người nào cũng lánh                   Đình trên, đền dưới, những nghê với rồng(1)...
       Hoặc nói lên nỗi khổ cực của người lao động những năm hạn hán, mất mùa… nhưng phong phú nhất vẫn là các truyền thuyết đánh hổ, diệt hổ như: sự tích đền Phùng Hưng, chuyện Lưu Kiện vật hổ v.v… còn truyền tụng rộng rãi trong nhân dân.
       Những sáng tác dân gian là chất liệu phong phú của các cuộc hát ví, hát phường vải… diễn ra thường xuyên trong sinh hoạt văn hóa của nhân dân trước đây. Nó là nguồn cổ vũ lớn cho các thế hệ cư dân trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước.
       2. Học hành- thi cử.
       Là một vùng quê nghèo, nhân dân quanh năm sản xuất nông nghiệp, tuy không có nhiều người học hành đỗ đạt cao như một số địa phương trong huyện, nhưng người dân hai làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa vẫn cố theo đuổi sự nghiệp bút nghiên, kinh sử và không ít sỹ tử đã thành đạt. Do hoàn cảnh thiên tai, binh hỏa và sự hủy hoại bởi thời gian, các bia ký, sắc phong, gia phả…bị thất tán, hư hỏng không cho phép chúng ta biết được một cách đầy đủ về công việc, học hành của người xưa ngoài những ghi chép ít ỏi, vắn lược trong một số cuốn gia phả của một số dòng họ ở địa phương.
       Theo gia phả của họ Hồ ở Quỳnh Tụ cho biết: Trong họ có 8 vị đỗ đại khoa, trong số đó có các ông: Hồ Hữu Thiệu, Hồ Sỹ Tâm, Hồ Hữu Công. Gia phả dòng họ Lê cũng cho biết: Lê Tiến Tước, Lê Tiến Vinh đỗ tiến sỹ nhưng không ghi rõ thi và đỗ ở khoa nào.
       Sách “Quỳnh Lưu phong thổ ký” do Huấn đạo Hồ Tất Tố soạn ở thế kỷ XIX viết: năm Phúc Thái (Lê Chân Tông 1643 - 1649) có các ông Trần Doãn Hợp, Lê Hữu Hòa, Đậu Đăng Đệ đều đỗ tứ trường khoa thi Hương. Năm Vĩnh Thịnh (đời Lê Dụ Tông 1705 - 1719) có các ông Lê Trọng Liên; năm Vĩnh Hữu (Lê Ý Tông 1735 - 1740) có các ông Nguyễn Công Hân; Năm Cảnh Hưng (Lê Hiển Tông 1740 - 1786) có ông Đậu Duy Hàn đỗ tứ trường khoa thi Hương, Trần Đức Bác đậu cử nhân năm 1848, thời vua Tự Đức năm thứ hai, được bổ nhiệm làm quan huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
       Năm 1918, chính quyền cai trị bỏ thi chữ Hán ở Trung kỳ và tổ chức dạy tiếng Pháp và một phần chữ Quốc ngữ trong các nhà trường thuộc địa. Ngoài một số trường tỉnh, huyện, Pháp mở một số hương trường. Nói là “hương trường” nhưng thực ra 5-7 làng mới có một vài lớp học với dăm ba chục học trò là con cái của các nhà quyền quý, giàu có. Khoảng cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Chính phủ thực dân cho mở ở Quỳnh Văn một hương trường Pháp - Việt. Nhờ gần trường, một số thanh niên của làng như các ông: Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Công Nho, Lê Tiến Liệng … đã được gia đình cho theo học.
       Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, tiếp đến thời kỳ Mặt trận Bình dân, phong trào đòi mở trường, đòi dạy và học chữ quốc ngữ của dân chúng lên mạnh. Năm 1936, ngoài các trường sơ đẳng trong huyện, thì trường sơ đẳng ở Quỳnh Tụ được thành lập. Năm 1942 tại làng Quỳnh Tụ thầy giáo Trần Văn Hy và một số người biết chữ Quốc ngữ đã tổ chức một lớp dạy tiếng Việt tại đình Làng Đông. Lớp học đã thu hút 40 học sinh, trong số này về sau có một số người theo học hết bậc tiểu học. Tiếp bước truyền thống hiếu học của cha anh, nhiều người con Quỳnh Xuân như: Lê Đình Lý, Nguyễn Duy Môn, Nguyễn Duy Cừ, Nguyễn Công Tá, Vũ Nhất Trí... trở thành những cán bộ cốt cán hoặc trưởng các đầu ngành tích cực phục vụ xho Tổ quốc.
       3. Tôn trọng người già
       Tôn trọng người già là một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của người Quỳnh Xuân:
       Các cụ từ 55 tuổi trở lên đều được làng mời dự yến. Việc bố trí thứ bậc của từng mâm cỗ cũng căn cứ vào độ tuổi. Các cụ thọ bát tuần (80 tuổi) ngồi một mình một mâm, thọ 70 tuổi hai người một mâm, thọ 60 tuổi 3 cụ một mâm còn 55 tuổi 4 cụ một mâm. Đến nay tuy không còn cảnh thứ bậc, nhưng vào dịp đầu xuân hàng năm, Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể đều tổ chức mừng lão cho các bậc cao niên ở địa phương với những hình thức trang nghiêm, trân trọng.
       Bên cạnh nét đẹp tôn trọng người già, cổ vũ việc học, nhằm khuyến khích con em trong làng chăm chỉ học hành, thi cử đỗ đạt, đem lại vinh quang cho làng từ xưa được người dân Quỳnh Tụ rất quan tâm thể hiện trong quy định của làng. Đó là nếu đậu tú tài được làng biếu 2 sào, cử nhân 3 sào, tiến sĩ, phó bảng 1 mẫu.
       Quan hệ vợ chồng chung thủy cũng là nét đẹp của người phụ nữ ở Quỳnh Xuân, tiêu biểu: Năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), bà Hồ Thị Truyền(1) ở làng Bất Hủ, lấy chồng tên là Sĩ người cùng thôn. Năm 20 tuổi sinh con trai thì chồng chết, bà để tang chồng, thờ cha mẹ chồng nuôi con nhỏ. Nhiều nhà phú hào trong vùng muốn lấy song chị không bằng lòng. Mẹ đẻ, mẹ chồng nhiều lần khuyên bà nên tái giá nhưng để tỏ rõ chí thờ chồng, bà đã chặt ngón tay giữ trọn tiết, nên được vua khen tiết hạnh.
       4. Tôn giáo, tín ngưỡng
  Tôn giáo:
Phật giáo: Tuy Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm, nhưng qua điền giã chưa tìm được dấu tích ngôi Chùa nào. Dù vậy, trong tâm thức của người dân Quỳnh Xuân vẫn đậm nét những giá trị nhân văn của Phật giáo “ Từ - Bi- Hỉ -Xá” bởi các triết lý đó phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc ta
Đạo Thiên chúa: du nhập vào Quỳnh Xuân và cuối thế kỷ XIX Giáo xứ Xuân An  (thuộc giáo phận Vinh). Đến nay, đồng bào theo đạo Thiên chúa ở xã chiếm khoảng 10 % dân số. Trên địa bàn xã có 1 nhà thờ giáo xứ.
Tín ngưỡng: Cũng như bao người dân Việt Nam, đời sống tâm linh của người dân Quỳnh Xuân khá phong phú có nhiều dòng tín ngưỡng trong đó thờ thần và thờ cúng Gia tiên là 2 dòng tín ngưỡng phổ biến nhất.
 Ngày xưa nhiều làng ở Quỳnh Xuân có đền, điện do nhân dân lập ra để thờ thần (gồm nhân thần hoặc thiên thần) như: đền Phùng Hưng thờ Bố Cái đại Vương, người có công trong sự nghiệp chống giặc phương Bắc bảo vệ đất nước và giúp dân làng diệt hổ; đền Xuân Hòa thờ Lưu Kiện và 12 vị tổ triệu cơ, người có công khai hoang, vỡ đất lập làng. Hiện nay, hai ngôi đền này đang được nhân dân giữ gìn, tôn tạo khá tôn nghiêm nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng.
 Người dân Quỳnh Xuân chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ cưới hỏi, ma chay, thờ cúng tổ tiên, cha mẹ, đến quan niệm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, cần, liêm, dũng
Đồng thời, người dân Quỳnh Xuân luôn ý thức sâu sắc việc thờ cúng Gia tiên là đạo lý, là nghĩa vụ thiêng liêng. Lúc cha mẹ còn sống thì phụng dưỡng chu đáo, khi cha mẹ qua đời thì hương khói cúng đơm sao cho trọn nghĩa, vẹn tình. Những người coi nhẹ tổ tiên, không thờ phụng được coi là bất nhân, bất hiếu. Trong nhà bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian chính, cao ráo, sạch sẽ, trang nghiêm nhất. Đồ tế có đủ hương, hoa, trầm, trà, đèn dầu, bát đũa… Vào những ngày giỗ, tết có thêm mâm cỗ mặn. Họ lớn đông người thì xây nhà thờ riêng, họ nhỏ ít người không có điều kiện thì tổ chức thờ cúng ngay tại nhà trưởng tộc. Trong dòng thời gian, các tục lệ có thể giảm bớt nhưng ngày giỗ tổ luôn được con cháu ghi nhớ để cúng tế trang nghiêm. Các dịp rằm tháng tháng Giêng, rằm tháng Bảy… con cháu khắp nơi tụ họp dâng nén nhang thơm tưởng nhớ công đức tổ tiên, đây cũng là dịp con cháu ôn lại lịch sử dòng họ, nhắc nhở, răn dạy con cháu về giữ gìn nề nếp gia phong, truyền thống dòng họ. Sự bảo lưu, gìn giữ tín ngưỡng thờ cúng Gia tiên qua bao thăng trầm lịch sử, nhưng ở thời nào cũng vậy việc thờ cúng Gia tiên luôn luôn giữ được sự tôn nghiêm, thể hiện nét đẹp đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
 Ngoài ra, ở Quỳnh Xuân còn lưu giữ được nhiều nét đẹp trong các phong tục mang đậm chất mộc mạc thuần hậu của một làng quê yên bình như: lễ vào họ, tục lập phường hội, …Từ thực tiễn cuộc sống với bao khó khăn, người dân xưa phải nương tựa vào nhau trong các tổ chức phường - hội trên tinh thần ái hữu. Các hình thức: phường săn, phường tranh, phường lúa, phường tiền, phường ngói...; hội hiếu hội hỷ ra đời và hoạt động sôi nổi, đã góp phần không nhỏ trong sự gắn kết, vun đắp thêm tình làng, nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư .
       VI. THIẾT CHẾ LÀNG XÃ
       Quá trình hình thành dân cư, làng xã và hoàn thiện cơ cấu tổ chức cai quản trong thôn, xóm ở Quỳnh Xuân gắn với quá trình lao động, sản xuất, chế ngự thiên nhiên. Ban đầu là những người ruột thịt, họ hàng cùng huyết thống, những người láng giềng gần gũi cùng tụ cư với nhau bên các sườn đồi Mù U, Tùng Lĩnh và hang động. Họ đã cùng nhau khai hoang, làm nhà cửa, ao hồ, đường sá, bảo vệ quê hương. Sức mạnh đoàn kết đó đã chiến thắng sự uy hiếp của thú dữ, sự tranh chấp, đe dọa của các thế lực thù địch, từng bước cải tạo chinh phục thiên nhiên để tạo ra từng ruộng lúa, nương khoai tươi tốt. Đó là một quá trình dài trải qua hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường, bền bỉ của những con người nơi đây.
       Thủa ban đầu, tất cả mọi việc trong làng đều đặt dưới sự điều hành của già làng, người có nhiều kinh nghiệm và uy tín, thời kỳ quản lý xóm làng chủ yếu bằng tục lệ, quy định của làng đặt ra. Mô hình thôn xóm và cơ chế quản lý sơ khai tồn tại khá lâu trong lịch sử công xã nông thôn.
       Khi các dòng họ từ các nơi khác đến sinh cơ, lập nghiệp, diện tích đất đai ngày càng được mở rộng, dân số tăng lên là cơ sở để lệ làng, quy định của làng ngày càng chặt chẽ hơn.
       Nhà nước ra đời, cùng với nó là bộ máy quản lý thôn xóm được hình thành và tổ chức chặt chẽ theo quy định của Nhà nước, nhằm thực hiện nghĩa vụ của làng xã đối với Nhà nước.
       Bộ máy quản lý làng xã là Hội đồng kỳ mục sau này gọi là Hội đồng hào mục gồm những người có phẩm hàm, chức tước và gia sản, người đứng đầu gọi là hương hội. Hội đồng hào mục có nhiệm vụ cố vấn cho Lý lịch đương thứ gồm Lý trưởng và ngũ hương.
       Lý trưởng là người đứng đầu tổ chức hành chính trong làng. Đời Lý gọi là Hương trưởng, nhà Lê gọi là Xã trưởng đến đời nhà Nguyễn là Lý trưởng. Giúp việc cho Lý trưởng có phó lý và ngũ hương gồm: hương bạ, hương kiểm, hương bản, hương mục và hương dịch. Mỗi hương được quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ của mình.
       Bên cạnh bộ máy "lý trưởng ngũ hương" thì Giáp, đơn vị hành chính tập hợp địa dư hoặc dòng họ và chỉ riêng cho nam giới, cũng tham gia vào chức năng quản lý thôn xóm. Phải có 2, 3 họ trở lên và có nhiều ngõ mới thành một giáp. Giáp có trưởng giáp hay gọi là tri giáp và phần thu, trưởng giáp còn gọi là ông câu đương, giáp là nơi con trai đến 18 tuổi phải vào; nếu vào giáp thì có trách nhiệm gánh vác trực tiếp những sự sai bổ về binh lương thuế lệ cùng các việc về quan dịch, thôn dịch và được hưởng các quyền lợi của cộng đồng hương ẩm. Những việc ma chay, cúng tế, rước sách thì sau khi có sự  thống nhất của quan viên chức sắc và lý hương thì giáp là nơi thực hiện đầy đủ những điều khoản của lệ làng. Lệ làng hay khoán làng là những điều y ước bằng miệng nhưng được cư dân tuân thủ một cách triệt để. Giáp còn đóng vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của để xây dựng đền, chùa, sửa sang đường làng, ngõ xóm...
       Bên cạnh phương thức quản lý làng xã bằng pháp luật của nhà nước, thì hương ước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý nơi hương thôn. Hương ước là các điều lệ liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đời sống xã hội trong làng, được hình thành và bổ sung trong quá trình phát triển của làng.
       Xã được thành lập trên cơ sở hợp nhất các làng. Tuy xã là cấp trực tiếp gần gủi nhất với làng, thay nhà nước điều hành, triển khai các chính sách của nhà nước ở làng xã, nhưng thực tế xã không có mấy tác dụng về mặt quản lý hành chính, càng không có tác dụng gì về mặt kinh tế. Tất cả mọi việc trong làng đều do hội đồng hương lý định đoạt. Từ việc thu nộp sưu thế, bắt lính, bắt phu, cống nộp đặc sản đến việc quản lý sổ đinh, sổ điền, hay việc tế tự thần linh, bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong làng, quản lý tài chính địa phương, quản lý ao hồ, đồi núi... Tùy tính chất quan trọng và mức độ khẩn trương của từng công việc để hội đồng hào lý quyết định.
       Nhìn chung, hội đồng hào lý được quan trên chỉ định hoặc do dân bầu ra đều có những cống hiến trong công cuộc xây dựng xóm làng, tuy nhiên trong bối cảnh "làng là bầu trời riêng", "phép vua thua lệ làng", cái quyền nhất hô bách nạt của hương lý hầu như bất khả xâm phạm; có điều kiện tác oai tác quái mà không bị quan trên xử phạt, địa chủ cường hào trong làng càng dễ bề đàn áp, bóc lột. Vì vậy, cuộc sống của người dân càng trở nên cực khổ.
          Dưới chế độ thực dân pháp, bộ máy quản lý làng xã càng trở nên chặt chẽ hơn. Thực dân Pháp và nhà nước phong kiến Nam triều chia huyện Quỳnh Lưu thành bốn tổng, đứng đầu là tổng, giúp việc có phó tổng, dưới tổng là xã, nên sự chi phối trực tiếp của thực dân Pháp giảm bớt về mức độ. Nhưng để tăng cường kìm kẹp, giám sát chúng đã đặt ra hệ thống bang tá từ huyện đến tổng và lập thêm một số đồn binh ở những vị trí quan trọng như: Rú Đồn (ga Cầu Giát hiện nay), Ngọc Huy (Mai Hùng)... Làng xã lúc này, bên cạnh bộ máy quản lý là hội đồng hào mục và hội đồng chức dịch, bấy giờ có thêm chánh xã đoàn và một lực lượng tuần phu, hoạt động dưới sự chỉ huy của bang tá.
       Sau phong trào cách mạng 1930-1931, thực dân Pháp chủ trương cấm "Quần tam, tụ ngũ", nếu từ 3 đến 5 người nhóm lại bị coi là phạm pháp. Các sinh hoạt thôn xóm, làng xã như: tế lễ, rước sách, đình đám...hay ma chay, cưới xin... đều bị kiểm soát nghiêm ngặt.
       Dưới ách kìm kẹp của đế quốc, phong kiến, nhân dân phải chịu cảnh "một cổ hai tròng". Biết bao cảnh người dân lao động ở đây phải chịu lao dịch, thuế má nặng nề, mất hết ruộng đất phải tha hương cầu thực. Mất mát, đau thương, tủi nhục hằn trên cuộc sống hàng ngày của họ. Không còn con đường nào khác, họ phải đoàn kết đứng lên đấu tranh đánh đuổi thực dân đế quốc xâm lược và lật đổ chế độ phong kiến đương thời giành lấy độc lập tự do và xây dựng cuộc đời mới.
 
                                                                                              CHƯƠNG II
QUỲNH XUÂN TRONG PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
(1930 - 1945)
 
I. NHÂN DÂN QUỲNH XUÂN THAM GIA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
1930 – 1931
1. Tình hình Quỳnh Xuân trước ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
       Trải qua hàng trăm năm trị vì của các triều đại phong kiến Việt Nam và ngót một thế kỷ cai trị của thực dân Pháp, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, người dân lao động ở Quỳnh Xuân luôn sống trong sự nghèo đói và tủi nhục bởi diện tích canh tác ít, đất đai lại khô cằn; sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên; nạn bao chiếm đất đai của giai cấp địa chủ. Vì thế, không ít nông dân của các làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ trước đây lâm vào cảnh:
        “Điền vô nhất cao, lao vô nhất chính”
       (ruộng không có một sào, bò không có một con).
       Nông dân lĩnh canh ruộng đất phải nộp tô cho địa chủ hơn 50% hoa lợi. Thuế đất ruộng cũng rất nặng nề, từ 5% năm 1908 đã tăng lên 30% (11/1928); thuế đinh ngày một tăng từ 0,30/suất (năm 1893) đã tăng 2đ,90 (năm 1918) và 3đ,60 (năm 1928). Ngoài bòn rút bằng lợi tức, thuế khóa, bọn cường hào ở địa phương còn bày đặt ra các khoản đóng góp. Ngoài lễ tết hàng năm, người lao động còn phải đóng góp nhiều tiền, gạo, thịt và hàng trăm ngày công vào các kỳ tế lễ thần thánh, cầu đảo, cầu yên… tệ xôi thịt ở nơi đình trung là gánh nặng truyền kiếp đối với người nông dân Việt Nam nói chung và người nông dân lao động ở Quỳnh Xuân nói riêng.
       Dưới chế độ thực dân Pháp, các tệ nạn ấy không những giảm mà còn nặng nề và độc ác hơn. Thực dân Pháp đã cho một số điền chủ người Pháp và Việt Nam bao chiếm hàng trăm héc ha đất để mở mang đồn điền. Riêng Trần Thúy Doanh với việc mở đồn điền Trịnh Môn, y đã bao chiếm của nông dân làng Bất Hủ, Xuân Hòa, Đồng Xuân . .
       Cùng với việc bao chiếm đất đai lập đồn điền, Pháp còn nắm độc quyền buôn bán muối và rượu. Năm 1903, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cho công ty Bắc kỳ và miền Bắc Trung kỳ được độc quyền kinh doanh rượu, muối, thuốc phiện. Từ khi có Nghị định này, những người buôn bán các thứ hàng trên đều bị chúng kiểm soát rất nghiêm ngặt. Chúng cấm ta nấu rượu bằng gạo tẻ và gạo nếp nhưng bắt phải tiêu thụ loại rượu cồn do công ty Phông ten của Pháp sản xuất. Rượu do dân ta tự nấu chúng cho là “rượu lậu”. Rượu cồn chúng đem xuống từng làng, thôn, giáp bắt dân mua. Tại thị trấn Cầu Giát, Pháp lập ra một chi nhánh đại lý kinh doanh rượu.
       Đối với muối ăn, nhà Đoan Pháp cho thu mua muối của diêm dân với giá rẻ mạt là 6 hào/kg rồi đem lên Quỳ Châu, Quế Phong bán với giá cắt cổ là 6,50đ/kg. Để bảo vệ cho việc kinh doanh hai nguồn lợi lớn. Hàng ngày, nhà Đoan cho lính sục vào các làng cùng bọn hào lý ở địa phương lùng sục, bắt bớ những người nấu rượu và buôn bán muối.
          Việc bắt phu, bắt lính đi đào sông, làm đường, làm bia đỡ đạn cho chính phủ thuộc địa cũng diễn ra thường xuyên. Chính sách vơ vét, khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên và sức lực của người Pháp đã khiến cho nông dân Việt Nam trong đó có những người dân lao động ở Quỳnh Tụ, Xuân Hòa đến chỗ bần cùng, kiệt quệ. Đó cũng là lý do khiến cho phong trào đấu tranh của nhân dân ta chống lại ách cai trị của thực dân Pháp và Nam triều phong kiến sớm bùng nổ và diễn ra mạnh mẽ.
           Năm 1908, dân làng Xuân Hòa đã nổi lên đấu tranh chống lại bọn Tây đoan ở đồn Ngọc Huy (Mai Hùng) về bắt muối và rượu. Hào lý định che chở cho bọn Tây đoan, cũng bị bao vây. Khiến bọn Tây đoan phải chạy thục mạng về đồn. Hành động tiên phong này của dân chúng ở Xuân Hòa đã châm ngòi nổ cho phong trào quần chúng nổi dậy chống cường quyền, áp bức của các làng xã khác trong huyện.
          Năm 1916, dựa vào sự che chở của chính phủ bảo hộ, Bang Tràm đã tự do chiếm hàng chục mẫu ruộng của làng Quỳnh Tụ và Quỳnh Văn để lập đồn điền. Nhân dân hai địa phương bị mất ruộng đã cùng với nông dân các làng xã lân cận nổi dậy đòi Bang Tràm phải trả lại ruộng đất cho họ. Bang Tràm ỷ vào sự che chở của quan thầy cấp trên đã huy động gia nhân, tôi tớ hòng chống lại quần chúng. “Tức nước vỡ bờ”, nông dân đã quyết một phen sống mái với bọn chúng. Hai tên tay sai của Bang Tràm phải đền tội. Bang Tràm thoát chết. Nhân đà thắng lợi, quần chúng đã phát đơn kiện lên tỉnh, buộc Tổng đốc Nghệ An ra lệnh bắt Bang Tràm phải trả lại ruộng đất cho nhân dân hai làng.
          Năm 1917, Bọn Tây đoan về bắt rượu ở nhà ông Hồ Tịch làng Xuân Hòa. Nhân dân trong làng đã tập hợp chống lại, trước sức mạnh của quần chúng, bọn Tây đoan hoảng hốt phải bỏ chạy. Trước khi rút quân, chúng bắn chết một người và làm một người bị thương. Nhân dân làm đơn kiện, buộc bọn chúng phải bồi thường.
          Năm 1924, hào lý ở Xuân Hòa đã tham ô tiền quốc trái và ăn tiền thẻ đinh của nhân dân. Ông Vũ Lộc, Hồ Cảnh và Vũ Đình Phiệt đã cùng 30 người khác lập phe hộ làm đơn kiện. Trước sự thật, quan đã cách chức lý trưởng Hồ Như Tùng và phó lý Hồ Trọng Thông.
          Trước những cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân, phong trào phản ứng tệ đóng góp xôi thịt nơi đình trung cũng diễn ra mạnh mẽ.
       Nhìn chung trước năm 1930, các cuộc đấu tranh của dân chúng ở các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa cũng như các địa phương khác còn mang tính chất tự phát, lẻ tẻ. Nhưng những cuộc đấu tranh và hình thức đấu tranh ấy thể hiện truyền thống đấu tranh yêu nước của nhân dân. Đó là những ngọn lửa đầu tiên được nhen nhóm trong các làng xã ở Quỳnh Lưu để bùng cháy khi có cơ hội.
       2. Nhân dân Quỳnh Xuân trong phong trào cách mạng 1930-1931
       Sau bao nhiêu năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin, chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức, dẫn đến việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, mở ra một bước ngoặt lịch sử vĩ đại cho cách mạng nước ta.
       Ngày 20/4/1930, tại Thanh Sơn (Sơn Hải), Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tổ chức cách mạng là Thanh Niên và Tân Việt. Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ gồm 5 đồng chí: Nguyễn Đức Mậu (Bí thư), Nguyễn Hữu Giảng, Đào Quang, Nguyễn Xuân Đào và Hoàng Văn Hợp là Ủy viên.
          Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, ngày 20/6/1930, dân chúng các làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ đã cùng hơn 300 diêm dân ở các làng Thanh Đàm, Thanh Đoài, Văn Thai đã kéo về đồn Thương chánh Phú Đức biểu tình đưa yêu sách đòi:
       - Tăng giá mua muối cho diêm dân lên 30%...
       - Không được đánh đập dân làm muối
       - Để cho dân đem một số muối về dùng, không tự tiện vào nhà dân khám muối.
       - Được tự do đổ nước, cạo muối....
          Trước khí thế đấu tranh của lực lượng cách mạng Quỳnh Lưu dưới sự chỉ đạo của Đảng, cuộc biểu tình đã giành thắng lợi tạo đà cho hàng loạt các cuộc đấu tranh tiếp nối. Sau cuộc biểu tình, thực dân Pháp và tay sai càng tăng cường hơn các thủ đoạn đàn áp, ngăn chặn sự hoạt động của Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng. Một số đồng chí lãnh đạo của huyện bị sa vào tay giặc nhưng phong trào quần chúng vẫn được giữ vững. Nhân dân Quỳnh Lưu, cũng như Quỳnh Tụ vẫn tin vào thắng lợi của cách mạng do Đảng lãnh đạo.
       Ngày 1/8/1030, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế chống chiến tranh đế quốc, Đảng bộ Quỳnh Lưu đã tổ chức treo cờ đỏ búa liềm ở nhiều nơi trong huyện và vận động nông dân kéo tới các nhà hào lý lấy thóc chia cho dân chúng. Tại làng Quỳnh Tụ, lần đầu tiên cờ đỏ búa liềm được anh Văn Quý, một quần chúng cốt cán treo rên ngọn cây gạo ở chợ Vân làm nức lòng dân chúng.
       Đầu năm 1931, phong trào cách mạng ở các làng xã ở huyện Quỳnh Lưu có nhiều bước chuyển biến hơn(1). Ngày 4/2/1931, Huyện ủy Quỳnh Lưu tổ chức một cuộc biểu tình mới, mục đích của cuộc biểu tình nhằm chống sưu cao, thuế nặng, chống bắt muối, bắt rượu, chống khủng bố, chống đốt nhà và đấu tranh chống bọn đế quốc đàn áp hai làng Song Lộc và Tân Hợp (Nghi Lộc).
          Hưởng ứng chủ trương của Huyện ủy, dân chúng các làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Phương Cần, Quỳnh Văn… tập trung ở lèn chùa cùng với ba đoàn khác kéo lên biểu tình ở huyện đường Quỳnh Lưu.
       Trên đường biểu tình, đoàn người của tổng Phú Hậu vào làng Bèo đập phá nhà chánh tổng Hồ Văn Biểu. Đoàn biểu tình tổng Thanh Viên định xử tội tên phó đoan huyện Phạm Quang Vị nhưng y chạy thoát. Đoàn biểu tình của tổng Quỳnh Lâm khi qua làng Phú Mỹ kéo vào nhà tên chánh Kỉnh để thị uy. Chánh Kỉnh đã hàng phục quần chúng, y cầm cờ đi theo đoàn biểu tình.      
       Trước sức mạnh của quần chúng, bọn cường hào khiếp nhược, bọn nha lại và Tri huyện đều bỏ trốn (1).
       Sau cuộc biểu tình, phong trào đấu tranh của quần chúng khắp các địa phương trong huyện có đà phát triển mạnh hơn trước. Các cuộc mít tinh, diễn thuyết, treo cờ đỏ búa liềm, kể tội ác của thực dân, quan lại phong kiến diễn ra mạnh mẽ khắp các làng xã.
       Sau phong trào cách mạng 1930-1931, kẻ địch tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt hơn, chúng lập thêm nhiều điếm canh, tăng cường lính khố xanh và lê dương ở các đồn. Ngày đêm, bọn mật thám ráo riết truy lùng đảng viên và những quần chúng yêu nước để bắt bớ, chém giết, tù đày, hòng gây nổi khiếp sợ trong nhân dân. Một số đồng chí chủ trì của Huyện ủy bị bắt, cơ sở Đảng  ở một số làng xã bị phá vỡ, gây hoang mang, giao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
       Các làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ bấy lâu nay chưa hình thành được Chi bộ, phong trào vốn đã gặp khó khăn nay càng khó khăn, lúng túng hơn. Cũng như nhiều làng xã khác trong huyện, các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Xuân Úc cũng điêu linh bởi “khủng bố trắng” của thực dân Pháp. Có thể nói, đây là thời kỳ khó khăn nhất của phong trào cách mạng ở Quỳnh Lưu kể từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo. Nhưng không vì thế mà phong trào quần chúng bị dập tắt. Như “than hồng vùi trong trấu” chỉ chờ dịp là bốc cao lên thành ngọn lửa thiêu cháy bè bũ cướp nước và bán nước. Bước sang những năm 1932-1933, phong trào cách mạng bước vào thời kỳ thoái trào, tạm thời lắng xuống.
       Dưới tác động tích cực của Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Cuối năm 1935, tại làng Phú Thượng Nghĩa, Hội nghị nhằm kiện toàn lại Huyện ủy được diễn ra. Ban cấp ủy gồm 3 đồng chí: Phan Hữu Khiêm (Bí thư), Phạm Diên, Nguyễn Xuân Mai - Ủy viên. Các tổ chức quần chúng ở nhiều làng xã cũng được củng cố. Sau khi được kiện toàn, Huyện ủy đã tổ chức vận động quần chúng đấu tranh chống các hủ tục phong kiến, chống phù thu lạm bổ, đòi trả công lao dịch trên công trường đắp đê Nông Đoàn ở Hoàng Mai, chống việc nha lại bắt dân xây dựng huyện đường ở Cầu Giát v.v…
II. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ TIẾN TỚI TỔNG KHỞI NGHĨA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945)
1. Nhân dân Quỳnh Xuân trong phong trào cách mạng 1936-1939
       Năm 1936, Chính phủ Bình dân ở Pháp lên nắm chính quyền đã ban bố một số quyền tự do dân chủ cho các nước thuộc địa ở Đông Dương. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng họp ngày 6/7/1936, Quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế(1) rộng rãi, chuyển hướng từ hình thức đấu tranh bí mật, không hợp pháp sang hình thức đấu tranh công khai, nửa công khai; hợp pháp, nửa hợp pháp. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc phong kiến", chuyển sang khẩu hiệu "đòi tự do, dân chủ, cơm áo hòa bình". Khẩu hiệu đó đã đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của tất cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam, dấy lên cao trào cách mạng 1936-1939 với các phong trào:
       Lấy chữ ký, thu thập dân nguyện gửi phái đoàn Mặt trân Bình dân Pháp sang điều tra tình hình ở Đông Dương: Thực hiện chủ trương của cấp trên, các đồng chí cốt cán ở hai làng Quỳnh Tụ và Xuân hòa đã tổ chức lấy ý kiến, xin chữ ký của quần chúng, lập bản “dân nguyện” để gửi cho đại diện Chính phủ Pháp. Sáng ngày 24/2/1937, đông đảo quần chúng các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Quỳnh Văn, Thạch Động … đã kéo ra đứng rải rác dọc Quốc lộ 1A rồi kéo vào Cầu Giát để đón Gô đa. Tại Cầu Giát cùng với việc đưa yêu sách cho đại diện Chính phủ Pháp và hô vang các khẩu hiệu “đòi hủy bỏ thuế thân”, “chống bắt rượu, bắt muối vô lý”, đòi tự do hội họp, tự do đi lại, tự do lập hội…
       Việc tiếp đón viên thanh tra của Chính phủ Pháp đã trở thành một cuộc xuống đường, một cuộc biểu dương lực lượng rầm rộ của nhân dân lao động Việt Nam nói chung, Quỳnh Xuân nói riêng.
       Tham gia cuộc vận động tranh cử lý trưởng và hào mục: Trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta trong cả nước, bọn thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thực hiện một số cải cách hạn chế, chịu để cho những người lao động được bầu đại biểu vào Viện dân biểu, vào bộ máy chính quyền các cấp.
       Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, trong các làng xã những người có uy tín đối với nhân dân, những đảng viên hoặc những người có cảm tình Đảng ra tranh cử vào bộ máy chính quyền. Ở Quỳnh Xuân, ông Nguyễn Đình Đào được tổ chức bố trí làm hương bộ của làng Xuân Hòa.
       Đấu tranh chống cường hào áp bức, bao chiếm đất đai
       Các cuộc đấu tranh chống bao chiếm ruộng đất, đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ tạm thời lắng xuống trong những năm 1932 - 1935, nay lại có điều kiện bùng lên, quyết liệt hơn. Không khí tự do, dân chủ đã xuất hiện ở nhiều vùng hương thôn Quỳnh Lưu.
       Tại các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Xuân Úc, Thạch Động… và một số địa phương khác đã nổi dậy chống lại địa chủ Trần Thúy Doanh. Dựa vào sự bảo trợ của chính quyền tay sai, địa chủ Trần Thúy Doanh đã  chiếm đoạt hàng trăm hecta đất để lập đồn điền Trình Môn. Trong cuộc đấu tranh này quần chúng nhân dân được sự hỗ trợ của một số hào lý, chức dịch của làng, xã. Tiêu biểu có ông Nguyễn Cảnh Điện - Lý trưởng làng Quỳnh Tụ xuống vùng đất, nơi ông Trần Thúy Doanh vừa khai phá để làm nhà, cày cấy. Ông gợi ý cho dân Quỳnh Tụ làm đơn kiện lên Tổng đốc Nghệ An đòi Trần Thúy Doanh phải trả lại ruộng đất cho họ. Cuộc đấu tranh này dai dẳng mãi đến năm 1938, kết quả, quần chúng nhân dân giành thắng lợi. Trước áp lực của quần chúng, Tổng đốc Nghệ An đã buộc Trần Thúy Doanh trả lại cho dân làng Quỳnh Tụ 160 mẫu, làng Xuân Hòa 80 mẫu, làng Quỳnh Văn 103 mẫu và Thạch Động 75 mẫu.
       Cũng trong thời gian này, nhân dân Quỳnh Tu, Xuân Hòa và một số làng Quỳnh Đôi, Phương Cần..., đấu tranh đòi cải cách hương thôn, đòi bài trừ những tên tổng lý gian ác, chống các hủ tục, bỏ lệ cúng tế xôi thịt, nạn ăn uống bê tha nơi đình trung, gây lãng phí tiền bạc của nhân dân. Trong những năm này, nhân dân còn ủng hộ cuộc đình công của công nhân Trường Thi (Vinh), ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng Nhật,...
       2. Chuẩn bị đón thời cơ, nổi dậy giành chính quyền (1939-1945)
       Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Tháng 9/1940, phát xít Đức xâm chiếm Pháp, Chính phủ của Mặt trận Bình dân Pháp bị lật đổ, chính phủ mới do Đalađiê lên cầm quyền đã thi hành nhiều chính sách phản động. Thực dân Pháp ở Đông Dương, phát xít hóa bộ máy cai trị của chúng. Ở Quỳnh Lưu, chúng tăng cường lính cho các đồn quan trọng như Cầu Giát, Thanh Sơn, Ngọc Huy..., hàng ngày chúng đưa quân đi càn quét truy lùng, bắt bớ cán bộ cách mạng và những người yêu nước.
       Bên cạnh phát xít hóa bộ máy cai trị, thực dân Pháp thi hành chính sách kinh tế thời chiến. Chúng ráo riết trưng thu, trưng mua các loại hàng hóa, nông thổ sản như: thóc, ngô, lạc, vừng, bông, đay, muối, cá khô, nhựa thông… để phục vụ cho nhu cầu của chiến tranh. Thực dân Pháp tăng cường bắt phu đi xây dựng các công trình giao thông, quân sự và bắt thanh niên đi làm lính thợ, lính chiến. Nhân dân các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Thạch Động, Hoàng Mai… hàng ngày phải còng lưng đội đất tôn cao con đường Hoàng Mai để cho xe nhà binh chạy. Nhiều cuộc ẩu đả giữa phu làm đường, phu gánh muối với bọn tây đoan, cai ký đã xẩy ra thường ngày.
       Trước tình hình đó Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho tất cả các tổ chức Đảng vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng. Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu chuyển sang hoạt động bí mật nhưng không kịp, nhiều cán bộ đảng viên và quần chúng bị bắt.
       Ngày 22/9/1940, Phát xít Nhật nhảy vào xâm chiến Đông Dương, trước sức ép của phát xít Nhật, thực dân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Dưới ách thống trị của phát xít Nhật - Pháp, nhân ta ta phải chịu: "một cổ hai tròng". Chính sách trưng mua lương thực phục vụ cho chiến tranh, mua rẻ, bán đắt. Các mặt hàng như gạo, muối giá cả tăng vọt. Ở Quỳnh Lưu giá gạo tăng lên hàng chục lần. Các loại thuế khóa cũng đua nhau úp chụp lên đầu dân chúng. Nhân dân lao động rơi vào tình cảnh kiệt quệ, khốn cùng. Kẻ buôn thúng, bán mẹt thua lỗ. Người ăn xin đầy đường, chật cứng bến xe, bến tàu. Hậu quả của tình hình đó là ngay từ năm 1944, nạn đói đã xẩy ra một cách nghiêm trọng ở Quỳnh Lưu: cả huyện có hơn 1.000 người bị chết đói, 505 gia đình có người bị chết đói, trong đó có 33 gia đình chết không còn một ai, 42 gia đình có từ 3-5 người bị chết đói(1). Hai làng Quỳnh Tụ và Xuân Hòa cũng có hàng chục người chết đói. Không còn con đường nào khác, nhân dân phải vùng lên bẻ gãy xiềng xích nô lệ của phát xít Nhật - Pháp.
       Sau 30 năm buôn ba hoạt động cứu nước ở nước ngoài. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Người, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Tháng 8/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ Tám của Đảng họp, nhận định: Hai kẻ thù ở Đông Dương (Nhật - Pháp) sẽ xâu xé nhau để giành quyền lợi, nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu lúc này là đánh đổ ách thống trị, tàn bạo của phát xít Nhật, giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than.
       Bước sang năm 1945, thời cơ cách mạng đã đến gần. Trung ương Đảng nêu rõ mâu thuẫn gay gắt giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp và chỉ rõ: “Nhật sẽ đánh Pháp để trừ họa Pháp đánh từ sau lưng khi quân Đồng Minh vào Đông Dương”. Đúng như dự đoán của Đảng, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" và nhận định: tình hình đó làm cho khủng hoảng chính trị xẩy ra, nạn đói càng hoành hành. Trong khi đó, chiến tranh thế giới gần kết thúc với thắng lợi của quân Đồng Minh, tình thế, thời cơ cách mạng đến gần. Chỉ thị nêu rõ: "kẻ thù duy nhất lúc này là phát xít Nhật". Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, tập hợp quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
       Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, một cao trào kháng Nhật bùng lên mạnh mẽ ở Quỳnh Lưu. Từ tháng 4/1945, phong trào cách mạng ở huyện phát triển mạnh. Các đảng viên ở tù về kết hợp với những đảng viên ở huyện tìm cách kiện toàn, xây dựng lại các chi bộ Đảng. Trên cơ sở các tổ chức Đảng được phục hồi, những đảng viên cốt cán ở huyện nhất trí thành lập lại đảng bộ huyện để tiến tới lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
       Giữa năm 1945, hội nghị thành lập lại đảng bộ huyện diễn ra tại Phú Nghĩa Thượng (Quỳnh Nghĩa) đã bầu Ban Chấp hành gồm: đồng chí Nguyễn Xuân Mai (Bí thư), Phan Hữu Khiêm, Dương Đình Thúy, Nguyễn Văn Phương, Hồ Hữu Lợi Ủy viên. Hội nghị quyết định xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa việc thành lập Mặt trận Việt Minh, tích cực phát triển phong trào kháng Nhật và tay sai, đoàn kết tập hợp mọi người yêu nước vào phong trào cứu nước, giành chính quyền.
          Sau hội nghị, đồng chí Dương Đình Thúy được cử xuống làng Quỳnh Tụ tìm cách móc nối với một số quần chúng tích cực như các ông: Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Đình Thống, Vũ Đình Phiệt... để chuẩn bị cho việc tổ chức cướp chính quyền. Tại nhà thờ họ của ông Nguyễn Đình Thống, đồng chí Dương Đình Thúy đã giải thích cho anh em nghe về những thuận lợi và khó khăn của tình hình trong nước, thế giới và phân tích các điều kiện của việc cướp chính quyền khi thời cơ đến… Cũng tại cuộc họp này, đồng chí Dương Đình Thúy đã quyết định thành lập lực lượng tự vệ của hai làng Quỳnh Tụ và Xuân Hòa với tên gọi công khai là “Tổ bảo an(1), gồm các ông: Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Niên, Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Cảnh Dực, Vũ Đình Phiệt… Trang phục của Tổ bảo an là quần soóc, áo ngắn tay, gậy tre hoặc thước gỗ. Để che mắt địch, bề ngoài tổ hoạt động như một tổ bảo vệ, giữ gìn, trật tự trị an trong hương thôn. Đêm đêm, Tổ bảo an đã bí mật luyện tập võ nghệ và các động tác lăn, bò, chạy, nhảy... Để tập hợp quần chúng, Tổ bảo an đã khéo léo tổ chức nhân dân hai làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa đắp con đường từ làng Xuân Hoà lên Quỳnh Tụ sang xã Quỳnh Văn. Tổ bảo an gồm các ông: Hồ Đạt Cầu, Hồ Thượng Chí, Nguyễn Hào, Nguyễn Trung mở rộng tuyến đường từ chợ Vân lên Quỳnh Văn. Việc mở đường tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của quần chúng khi nổi dậy cướp chính quyền địch. Nhiều tên hào lý, chức sắc ở các làng có biết những hoạt động của Tổ bảo an nhưng bọn chúng không giám tố cáo và chống lại.
       Các Tổ bảo an cũng kiên quyết đấu tranh để bọn hào lý cho dân khất thuế, mở kho phát thóc cứu những người bị đói, đồng thời còn tổ chức nhân dân cướp gạo của phát xít Nhật về phân phát cho dân. Tổ bảo an đóng vai trò như chính quyền lâm thời nơi hương thôn, tổ chức nhân dân chuẩn bị cướp chính quyền địch khi thời cơ đến.
       Tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
       Ngày 13/8/1945, Huyện ủy Quỳnh Lưu đã họp khẩn cấp ở Quỳnh Đôi, quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa từ huyện đến xã. Theo sự phân công của Ủy ban khởi nghĩa huyện, nhiều cán bộ cốt cán của Huyện ủy được phân công về các tổng lãnh đạo cơ sở, chuẩn bị giành chính quyền, đồng thời chỉ đạo các lực lượng tự vệ của ta giám sát, kiềm chế bọn bang tá, tổng lý, nha lại... không cho chúng thực hiện âm mưu phá hoại cuộc khởi nghĩa.
       Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Thời cơ cách mạng đã đến, được sự chỉ đạo của Việt Minh, hai làng Quỳnh Đôi và Văn Thai nổi dậy cướp chính quyền mau lẹ. Đêm 15/8/1945, Huyện ủy họp ở làng Văn Thai, sau khi xem xét đã quyết định giành chính quyền ở huyện vào ngày 17/8/1945, dự  kiến Ủy ban cách mạng lâm thời do ông Nguyễn Xuân Mai làm Chủ tịch.
       Thực hiện chủ trương trên nhân dân hai làng Quỳnh Tụ và Xuân Hòa, ngày 16/8/1945, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Dương Ngọc Võ, lực lượng tự vệ đã huy động quần chúng kéo đến nhà lý trưởng và bọn hào lý của làng để bắt chúng chuyển giao chính quyền cho cách mạng. Lý trưởng làng Quỳnh Tụ là Nguyễn Cảnh Điện và các chức dịch trong làng đã vội vàng nộp con dấu và giấy tờ, sổ sách cho chính quyền. Hào lý ở làng Xuân Hòa cũng nhanh chóng bàn giao việc quản lý làng xã cho chính quyền nhân dân.
       Tại đình làng Đông, trước sự có mặt đông đủ lực lượng tự vệ (gọi là đội xung phát) và hàng nghìn dân chúng của các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, đồng chí Dương Ngọc Võ đã tuyên bố xóa bỏ bộ máy chính quyền phong kiến tay sai.
        Ủy ban hành chính Cách mạng lâm thời được thành lập gồm:
          Ông Lê Trứ - Chủ tịch Ủy ban
          Ông Hồ Hiệu – Phó Chủ tịch
          Ông Nguyễn Văn Chính - Trưởng ban giao thông kiêm trưởng thôn Quỳnh Tụ.
          Ông Nguyễn Hào - Ủy viên tư pháp.
          Ông Lê Tiến Thiệng - Ủy viên tuyên truyền.
       Đúng như kế hoạch đã định, 15 giờ ngày 17/8/1945, hàng vạn quần chúng khắp các địa phương trong huyện Quỳnh Lưu với trang bị gậy gộc, giáo mác, mang theo cờ đỏ sao vàng, băng rôn, khẩu hiệu "ủng hộ Việt Minh", "Việt Nam độc lập muôn năm..." rầm rộ kéo về huyện lỵ Cầu Giát. Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng, và cũng do làm tốt công tác binh vận từ trước, tri huyện Chữ Ngọc Liễn cùng toàn bộ bọn nha lại trong huyện ra chào đón, nộp triện, thẻ bài, sổ sách, vũ khí cho cách mạng. Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc được kéo lên trong giờ phút thiêng liêng tung bay trước gió tại huyện đường chứng kiến sự chấm dứt vĩnh viễn hàng ngàn năm chế độ phong kiến, hàng trăm năm chế độ thực dân.
       Thay mặt dân chúng, thay mặt chính quyền cách mạng lâm thời, đồng chí Nguyễn Xuân Mai Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa trịnh trọng tuyên bố: từ nay chính quyền đã thực sự về tay nhân dân, chấm dứt ách thống trị của phát xít và tay sai. Ủy ban hành chính Cách mạng lâm thời ra mắt nhân dân. Đồng chí Nguyễn Xuân Mai làm Chủ tịch trước niềm hân hoan, phấn khởi của hàng vạn quần chúng lao khổ, nay đứng lên làm chủ tương lai, vận mệnh của mình. Theo lệnh của Ủy ban hành chính Cách mạng lâm thời, quần chúng chia nhau về cướp chính quyền ở các làng xã. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, đó là một thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
 
 
CHƯƠNG III
NHÂN DÂN QUỲNH XUÂN TRONG  CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)
 
       I. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI (1945 - 1946)
             Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ Công hòa ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, tin tưởng vào chế dộ mới. Nhưng cũng như các địa phương khác, chính quyền cách mạng lâm thời ở Song Quỳnh đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức. Nạn đói vẫn hoành hành, trước cách mạng đã cướp đi hàng chục sinh mạng của người dân, nay vẫn là một mối nguy hiểm đối với sự sống của người dân lao động. Cùng với nạn đói là dịch bệnh, dịch tả, căn bệnh khủng khiếp đã làm cho hàng chục người dân lao động ở các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Quỳnh Văn bị chết, có gia đình 2- 5 người chết không còn một ai.
       Hậu quả chính sách cai trị của đế quốc phong kiến để lại hết sức nặng nề, các tệ nạn xã hội tiếp tục diễn ra, nền kinh tế tiêu điều, kiệt quệ. Mặc dù chế độ phong kiến đã bị lật đổ, nhưng quan hệ sản xuất của nó vẫn tồn tại. Ở nông thôn, đại đa số nhân dân lao động vẫn không có ruộng đất hoặc không đủ ruộng để sản xuất.
       Chính quyền cách mạng mới thành lập, đội ngũ cán bộ tuy nhiệt tình, năng nổ nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý xã hội mới. Tất cả điều đó đã đặt ra thách thức lớn đối với nhân dân Song Quỳnh cũng như nhân dân các địa phương khác trong cả nước.
       Để ổn định tình hình khó khăn chung của đất nước, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã xác định nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng và toàn dân ta trong thời kỳ mới là chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong phiên họp đầu tiên ngày 3/9/1945 của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra 6 nhiệm vụ cần kíp:
          - Phát động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói.
        - Mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ,
        - Tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu,
          - Mở phong trào giáo dục ý thức (cần kiệm liêm chính, chí công vô tư) để bài trừ thói hư, tật xấu của chế độ thực dân để lại.
        - Bỏ ngay thuế chợ, thuế thân, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
        - Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.
        Cùng với nhân dân toàn huyện và nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của chính quyền mới, nhân dân Song Quỳnh đã hăng hái tham gia củng cố chính quyền và chống "ba thứ giặc", giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.
1. Chi bộ Đảng thành lập lãnh đạo quân và dân Song Quỳnh, Xuân Liên thực hiện công cuộc kháng chiến, kiến quốc
       Do số lượng đảng viên tăng và yêu cầu của phong trào quân chúng, ngày 14/11/1945, Huyện ủy Quỳnh Lưu quyết định thành lập Chi bộ Tùng Mai(1). Chi bộ Tùng Mai lúc mới thành lập, gồm 4 số đảng viên thuộc xã Song Quỳnh: Hoàng Nguyên Nậm, Vũ Văn Thống, Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Đình Hịnh, đồng chí Hoàng Nguyên Nậm được cử làm Bí thư. Đây là tiền thân của tổ chức Đảng các xã Quỳnh Xuân, Quỳnh Văn, Quỳnh Tân hiện nay.
          Chi bộ ra đời đánh dấu bước chuyển biến trong sự nghiệp bảo vệ xây dựng quê hương, góp phần vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Mặc dù được thành lập muộn hơn so với một số xã có chi bộ từ những năm 1930-1931, 1936-1939, 1939 - 1945 nhưng chi bộ chính là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, được thử thách qua các phong trào cách mạng của quần chúng. Những đảng viên đầu tiên của chi bộ thực sự là những người con trung kiên đứng mũi chịu sào trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ không ngừng coi trọng công tác bồi dưỡng và phát triển thêm đảng viên mới.
          Tháng 6/1946, chi bộ Tùng Mai kết nạp thêm một số đảng viên mới như: Nguyễn Văn Chính, Hồ Xơn, Lê Tiến Việt, Lê Đôn Ưu... Trên cơ sở số đảng viên được tăng cường và để phù hợp với tình hình mới ngày 14/11/1946, Huyện ủy Quỳnh Lưu quyết định tách chi bộ Tùng Mai thành hai chi bộ:
Chi bộ Tùng Mai thuộc xã Xuân Liên do: đồng chí Vũ Văn Thống - Bí thư; đồng chí Phạm Văn Đát - Phó bí thư.
Chi bộ Tùng Sơn thuộc Song Quỳnh do đồng chí Hoàng Nguyên Nậm làm Bí thư.
       Từ đây, phong trào cách mạng của nhân dân Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Xuân An đã có chi bộ Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy mới hình thành về tổ chức, nhưng Chi bộ đã nhanh chóng khẳng định được vai trò của mình trong việc chỉ đạo phong trào quần chúng ở địa phương.
       Ngày 6-1-1946, cùng với các nơi trong cả nước, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I tại Song Quỳnh đã được diễn ra theo đúng Luật định. Phần đông cử tri đã tự giác, phấn khởi đi bầu cử. Ai cũng nói, đây là lần đầu tiên được đi bầu cử, mọi người hào hứng tự tay mình cầm lá phiếu tham gia xây dựng chính quyền.
       Cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra thành công tốt đẹp, đầu năm 1946, Tỉnh Ủy Nghệ An xem xét tình hình phong trào chung đã đề ra chủ trương sáp nhập một số làng thành xã, lấy xã làm đơn vị hành chính.
       Tháng 4/1946, hai làng Quỳnh Tụ và Quỳnh Văn hợp nhất thành xã Song Quỳnh. Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính lâm thời huyện. Ủy ban hành chính lâm thời xã Song Quỳnh gồm các ông:
          1. Ông Hồ Hữu Phan - Chủ tịch.
          2. Ông Lê Đức Trứ - Phó Chủ tịch.
       Cuối năm 1946 - 1948, các làng: Xuân Úc, Xuân Hòa, thôn Xuân An và xã Xuân Phương được sát nhập, thành lập xã Xuân Liên.
         Chính quyền được kiện toàn:
          Ông Vũ Văn Thống - Chủ tịch
         Ông Nguyễn Hành Thiện - Phó chủ tịch
      Chi bộ Đẳng được thành lập, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội và bầu Hội đồng nhân dân với sự ra đời của Ủy ban hành chính, Ủy ban kháng chiến cũng như việc mặt trận và các tổ chức đoàn thể được kiện toàn có ý nghĩa hết sức to lớn đối với dân tộc ta. Điều đó khẳng định niềm tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền, đồng thời giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ của bọn phản động trong nước và ngoài nước; góp phần tăng cường tình đoàn kết giữa dân với Đảng, chính quyền tạo cơ sở vững chắc để tiếp tục giải quyết tốt các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài trên quê hương
2. Chống giặc đói
       Để giải quyết nạn đói trước mắt, chính quyền cách mạng lâm thời Song Quỳnh đã tiến hành trưng thu lúa gạo của một số tên cường hào phát cho nông dân. Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ các khoản nợ cũ và những thứ thuế vô lý do chế dộ cũ để lại. Đồng thời để giúp dân chống đói, chính quyền nhân dân huyện đã tiến hành chia các nhu yếu phẩm thu được của phát xít Nhật đua về từng làng để cứu đói cho dân và cung cấp để cho lực lượng tự vệ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
       Biện pháp cơ bản nhất để chống đói là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Một phong trào thi đua sản xuất tăng gia sản xuất được phát động. Dưới sự chỉ đạo của chính quyền và các đoàn thể: Thanh niên, Phụ nữ, nhân dân Song Quỳnh đã tiến hành khai hoang vỡ hóa hàng chục mẫu đất dọc chân núi Mù U, Tùng Lĩnh…. Với mọi nỗ lực lớn lao của cán bộ và nhân dân, chỉ sau hơn 3 tháng, nhiều cánh đồng xưa hoang hóa đã được phủ bằng các loại khoai lang và rau đậu… màu hồng cũng ửng lên trên nhiều khuôn mặt trước đây bủng beo, vàng vọt vì đói, rét và bệnh tật.
       Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: " lúc ta nâng bát cơm mà ăn, phải nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước:
       Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mổi tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa cháo để chờ mùa lúa sang năm, khỏi chết đói. Tôi chắc rằng đồng bào ai cũng sẵn lòng cứu khổ cứu nạn, mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nói trên(1).
       Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, bên cạnh đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chính quyền và các đoàn thể nhân dân tích cực vận động nhân dân thực hành tiết kiệm. Nhà nào cũng lập một hũ gạo tiết kiệm và ủng hộ những gia đình bị đói bằng cách: Cứ mỗi bữa nấu, nhà nào cũng giành lại một nắm gạo bỏ vào hũ. Cứ thế sau mười lăn ngày (hay một tháng) mỗi nhà đã có dư 5-7 cân gạo. Số gạo đó vừa giúp bà con qua khỏi cảnh đứt bữa của những ngày ba tháng tám, vừa có thể hỗ trợ cho những vùng bị thiên tai(2). Đặt hũ gạo tiết kiệm đã trở thành phong trào của quần chúng được duy trì, kéo dài cho đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với tên gọi khác nhau là: “Hũ gạo kháng chiến”, “hũ gạo nuôi quân”.
       3. Chống giặc dốt
       Cũng như mọi miền quê trên đất nước Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám nhân dân Song Quỳnh có trên 95% dân số mù chữ. Do vậy, việc chống giặc dốt cũng là một nhiệm vụ cấp bách như chống giặc đói.
       Chủ tịch Hồ Chí minh nói: "Dốt nát cũng là kẻ địch", "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", "muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho nước mạnh, dân giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ được thành lập, một phong trào chống nạn mù chữ được triển khai sâu rộng và nhanh chóng trong cả nước.
       Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Hồ Chủ tịch, Ủy ban xã Song Quỳnh đã thành lập ra Ban bình dân học vụ do ông Nguyễn Hiên làm trưởng ban, thay mặt chính quyền đôn đốc việc học của dân chúng. Đội ngũ giáo viên là những người biết chữ quốc ngữ, vừa là người tổ chức phong trào, vừa là người dạy.
       Cuộc vận động “xóa nạn mù chữ” được phát động mạnh mẽ, sâu rộng trong mọi tầng lớp, mọi đối tượng trong xã hội. Những ai chưa biết chữ đều phải đi học. Với phương châm: Người biết nhiều dạy cho người biết ít, người biết ít dạy cho người không biết. Lớp học được mở ra khắp nơi. Khắp sân đình, bờ tre, sân chùa, hội quán đâu đâu cũng có tiếng í ới học đánh vần.
       Để duy trì lớp học, nơi đây đã có nhiều sáng kiến phong phú. Không có giấy thì  viết lên bảng gỗ, bờ tường. Thiếu bút mực thì dùng than, dùng gạch. Không có dầu thắp sáng họ đã sáng chế ra loại đèn vạc (đèn thắp bằng những que củi thông, một thứ lâm sản rất sẵn ở Song Quỳnh) để phục vụ cho việc học vào ban đêm.
       Ban bình đân học vụ phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, sát hạch việc học của mọi người. Việc tổ chức đố chữ trước khi vào lớp, xuống đò được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Các đoàn thể tổ chức trao giải thưởng cho các chòm, xóm nhằm cổ vũ cá nhân có thành tích học tập cao.. Bằng mọi biện pháp tích cực nên một năm sau ngày đất nước giành được độc lập, xã Song Quỳnh đã có trên 70% số người biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ(1). Đây là một kết quả cao so với các địa phương khác trong huyện.
       Nạn đói được ngăn chặn, nạn dốt được đẩy lùi đó là cơ sở hậu thuẫn cho đồng bào và chiến sỹ cả nước trong đó có cán bộ và nhân dân Song Quỳnh chiến thắng sự đe dọa của giặc ngoại xâm.
       4. Xây dựng Quỹ độc lập và ủng hộ đồng bào Nam bộ kháng chiến
          Trước tình thế đất nước khó khăn, ngân khố Quốc gia trống rỗng, Chính phủ chủ trương phát động đồng bào quyên góp ủng hộ gây Quỹ độc lập và Quỹ đảm trợ quốc phòng, đặc biệt là phát động "tuần lễ vàng". Chủ trương này được nhân dân khắp nơi tự nguyện hưởng ứng. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ 17-9 đến 24-9-1945), nhân dân cả nước đã góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng. Nhiều nơi như ở Hà Nội, Sài Gòn, nhân dân đã ủng hộ một lượng lớn tiền của để kiến quốc. Riêng thành phố Vinh và 5 huyện của tỉnh Nghệ An góp được 23,6 kg vàng.
      Đối với Song Quỳnh, Xuân Liên là một địa phương nghèo nhưng khi được phát động, nhân dân đã không tiếc số của cải dành dụm từ bao đời quyên góp cho Chính phủ. Một số gia đình khá giả tự nguyện đóng góp bạc, vàng. Còn lại phần đông bà con lao động  đóng góp các loại đồ đồng như mâm đồng, khay đồng, nồi đồng và các vật dụng có giá trị giúp chính phủ Cụ Hồ rèn đúc vũ khí để đánh lại giặc Pháp. Ai ai cũng mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc kiến quốc. Bởi thế “Tuần lễ vàng” ở Song Quỳnh đã thu được kết quả tốt.
      Sau cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945, tuy ta giành dduweowcj chính quyền nhưng thù trong, giặc ngoài luôn rình rập. Theo Quyết định của Hội nghị quốc tế Pôxđam, quân Đồng Minh sẽ vào Việt Nam để tước vũ khí, giải giáp quân đội Nhật Bản: Quân Tưởng Giới Thạch từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào. Nhưng thực tế, quân Tưởng Giới Thạch kéo vào mang theo cả bọn tay sai phản động người Việt để lật đổ chính quyền cách mạng nước ta, quân Anh che chở cho quân đội Pháp tái chiếm nước ta. Ngày 23-9-1945, giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ, đồng bào miền Nam bắt đầu kháng chiến.
      Trước tình hình đó Đảng và chính phủ đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến.
       Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ, trong các đoàn quân Nam tiến đã có nhiều con em của nhân dân Song Quỳnh – Xuân Liên như các ông: Nguyễn Công Linh, Cao Lai, Nguyễn Đình Khoan, Vũ Sơn, Hồ Sơn, Hồ Quế, Nguyễn Niên, Lê Trám…Trong số những người này nhiều đồng chí đã hiến dâng tuổi trẻ của mình cho “Nam bộ thành đồng”. Máu xương của các anh đã góp phần cùng toàn dân giữ vững nền độc lập dân tộc.
      
       Do việc nhập xã nên từ năm 1950, Quỳnh Xuân có thêm hai thôn công giáo toàn tòng là Xuân An và Sông Lô với vài chục gia đình giáo dân. Đại đa số gia đình giáo dân ở đây là những người lao động nghèo khổ, có tinh thần kính chúa, yêu nước. Nhưng cũng không ít phần tử phản động, tay chân của Pháp, đội lốt tôn giáo, tìm mọi cách chia rẽ lương giáo, chống lại chủ trương của cuộc kháng chiến. Do đó, ngay từ khi nhập xã, cấp ủy và chính quyền xã Quỳnh Xuân đã chú ý tập trung xây dựng phong trào quần chúng ở hai xóm giáo này.
II. THAM GIA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
       1. Chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.
       Từ tháng 10/1946, thực dân Pháp ngày càng biểu hiện rõ quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa, giữa tháng 11 đến đầu tháng 12, chúng liên tiếp gây hấn ở Hải Phòng, Hà Nội. Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố gắng đàm phán để chiến tranh không xẩy ra nhưng "Chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới". Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Ngày 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến nổ ra ở thủ đô Hà Nội. Đêm 19-12-1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã viết: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô nệ”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc ta lại một lần nữa nhất tề đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp để cứu nước.
Nằm trong vùng tự do của cuộc kháng chiến (Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh), một trong những hậu phương lớn của cả nước; vì vậy thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn, cả quân sự và chiến tranh tâm lý để phá hoại hậu phương, tiêu hao sức mạnh kháng chiến, khi có điều kiện thì đổ quân chiếm đóng lâu dài. Trước tình hình mới, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ lúc này là: "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", tăng cường lực lượng về mọi mặt để chiến đấu, bảo vệ hậu phương.
          Năm 1947, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, Ủy ban kháng chiến ra đời cùng điều hành với Ủy ban hành chính, sau một thời gian ngắn, hai ủy ban được sát nhập , lấy tên là Ủy ban kháng chiến hành chính. Để tăng cường sự chỉ đạo của Đảng trong hoàn cảnh mới, Chi bộ đã cử một số đảng viên nắm giữ các cương vị chủ chốt của chính quyền và đoàn thể. Ông Nguyễn Văn Chính được bầu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Song Quỳnh; ông Hồ Đạt Cầu - Phó Chủ tịch.
Thực hiện chủ trương của Huyện Ủy, cùng quân và dân trong toàn huyện, lực lượng dân quân du kích và nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên tăng cường đoàn kết, vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa ra sức chuẩn bị mọi mặt, đề cao cảnh giác, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại hậu phương của địch.
 Tháng 3/1947, Chính phủ quyết định thành lập ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Kể từ đây, lực lượng dân quân du kích ra đời, thay thế cho các đội tự vệ ở các làng, xã.
       Giữa năm 1947, cơ quan Huyện đội Quỳnh Lưu chính thức được thành lập. Từ đây, công tác quân sự địa phương càng được chú trọng để chuẩn bị đối phó với mọi hành động của thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai. Tại các thôn xóm, lực lượng dân quân du kích kết nạp thêm đội viên, khẩn trương luyện tập quân sự, tăng cường tuần phòng, canh gác, sắm sửa thêm vũ khí tự tạo như giáo mác, gậy gộc... xây dựng một số phương án chiến đấu bảo vệ thôn xóm và phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang tập trung của huyện... Để khắc phục về vũ khí chiến đấu, đầu năm 1947, một xưởng sản xuất vũ khí của huyện được thành lập. Trong điều kiện nguyên liệu sản xuất vũ khí thiếu thốn, cùng với xã khác, nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên đã thu lượm được hàng nghìn kg sắt vụn ủng hộ xưởng quân khí của huyện.
Công tác tuyên truyền kháng chiến được làm thường xuyên. Khắp nơi trong xã đều có khẩu hiệu “Trường kỳ kháng chiến – Nhất định thắng lợi”. Mỗi xóm đã cho dựng một chòi phát thanh, đêm đêm các thành viên của xóm đều đọc tin tức chiến thắng ngoài mặt trận và các Chỉ thị của Chính phủ cho nhân dân nghe. Xã thành lập tổ tuyên truyền hoạt động bằng nhiều hình thức như: sáng tác thơ ca, hò, vè để ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi tinh thần sản xuất phục vụ kháng chiến của nhân dân.
          Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông với chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh",  âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của thực dân Pháp bị thất bại. Để cứu vãn tình thế, chúng tấn công nhiều nơi ở đồng bằng Bắc Bộ nhưng bị quân và dân ta chặn lại. Chúng âm mưu quấy rối vùng tự do của ta hòng ngăn cản sự chi viện của hậu phương Thanh -Nghệ Tĩnh đối với các chiến trường và đồng thời thăm dò lực lượng bộ đội chủ lực của ta.
       Thực hiện tiêu thổ kháng chiến
       Đầu năm 1947, Chính phủ ban hành sắc lệnh tiêu thổ kháng chiến với khẩu hiệu: "phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không thể lợi dụng được..."(1) nhằm ngăn chặn sự tiến công của địch đối với vùng tự do, hậu phương của cuộc kháng chiến. Quân và dân Song Quỳnh, Xuân Liên đã góp hàng nghìn ngày công vào việc “tiêu thổ kháng chiến”. Hàng ngày, nam nữ thanh niên thay nhau tham gia đập phá các công sở, nhà cửa lớn ở thị trấn Cầu Giát và đào phá các cầu cống, đặt vật cản trên hai tuyến đường Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam…Trong khi thực hiện công tác tiêu thổ, một số đồng bào, đồng chí của quê hương Song Quỳnh, Xuân Liên đã ngã xuống bởi bom đạn của kẻ thù và các tai nạn rủi ro như: anh Hồ Miếp, Nguyễn Đạt, Lê Điểm, Hồ Văn Đát… máu xương của các anh và công sức của quân và dân Song Quỳnh, Xuân Liên trong công cuộc tiêu thổ đã góp phần cùng đồng bào tỉnh nhà ngăn chặn được sự chiếm đóng của thực dân Pháp, tạo điều kiện để xây dựng quê hương Nghệ -Tĩnh thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến.
          Tháng 4/1948, Chính phủ ban hành trái phiếu kháng chiến. Đây là trái phiếu đầu tiên Chính Phủ Cách mạng ban hành. Được huyện hướng dẫn, Ủy ban kháng chiến Song Quỳnh, Xuân Liên đã vận động nhân dân mua. Nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên hăng hái, tích cực tham gia được huyện biểu dương, khen thưởng. Một số cá nhân tiêu biểu trong việc mua trái phiếu kháng chiến là ông Nguyễn Đình Hiến mua phiếu 4.200 đồng(1, bà Quý mua phiếu 4000 đồng... Cùng với đồng bào cả nước những đóng góp về vật chất quý báu đó góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta đi dần đến thắng lợi.
          2. Tiếp tục củng cố chính quyền, lãnh đạo nhân dân tham gia đập tan cuộc đổ bộ của thực dân Pháp vào Quỳnh Lưu (tháng 10/1949)
       Năm 1949, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ, cần tập trung lực lượng mạnh hơn. Theo chủ trương của trên, xã Song Quỳnh, xã Xuân Liên và một phần xã Nhật Tân nhập lại lấy tên là xã Quỳnh Xuân. Diện tích Quỳnh Xuân lúc bấy giờ có khoảng 5.000 héc ta. Hai chi bộ Tùng Mai và Tùng Sơn cũng được nhập lại thành Chi bộ Quỳnh Xuân.
  Đồng chí Vũ Văn Thống - Bí thư.
   Phạm Xuân Đát - Phó Bí thư
       Công việc bàn giao phải tiến hành trong 6 tháng. Trong quá trình đó, lại phải chống giặc Pháp đổ bộ lên Quỳnh Lưu. Đến ngày 21/10/1949, Hội đồng nhân dân ba xã bầu ra Ủy ban hành chính kháng chiến xã Quỳnh Xuân gồm 7 ủy viên chính thức gồm các đồng chí:
       Ông Vũ Văn Thống Huyện ủy viên - Chủ tịch.
       Ông Hồ Hữu Phan - Phó Chủ tịch.
       Ông Trần Chí Thành - Ủy viên, Văn Phòng.
       Ông Nguyễn Văn Đồng - Ủy viên, Tài chính.
       Ông Hồ Trọng Định - Ủy viên, Tuyên truyền.
       Ông Nguyễn Minh Thiện - Ủy viên dân sinh kinh tế.
       Ông Hồ Văn Thành - Ủy viên quân sự.
       Do địa bàn rộng, lại có nhiều vùng khác nhau nên Ủy ban hành chính xã đã tổ chức một mạng lưới giúp việc về chuyên môn khá đông và có chất lượng.
       Khối Công an nội chính gồm: Trưởng ban đồng chí Nguyên Đình Tạn, giúp việc có đồng chí Nguyễn Đình Thống, Hoàng Quang Kỳ.
       Khối Văn phòng gồm: Trưởng ban đồng chí Đậu Văn Đình, và 5 chuyên môn:
       Ông Hoàng Quang Đoan - Văn thư, kế toán.
       Ông Hồ Đăng Thế - Văn phòng, tư pháp.
       Ông Hồ Kim Anh, Hồ Văn Tế, Hồ Văn Áng (ấn loát Ly lô).
       Khối thông tin - văn hóa gồm: Trưởng ban Nguyễn Đình Qươn (Tân), các thành viên: Ông Nguyễn Đình Phượng, Hồ Phi Tích.
       Bình dân học vụ gồm: Trưởng ban Hồ Hữu Toán, các thành viên Trần Thế Vinh, Hồ Văn Khoan.
       Ông Hồ Sỹ Toán - thủy lợi, canh nông
       Ông Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Đình Khán - Xã đội
       Các Ông: Hồ Văn Xơng, Hồ Khan, cán sự Hồ Sỹ Dung - Xã đội phó, chính trị viên
       Các tổ chức chính trị xã hội cũng được kiện toàn, đi vào hoạt động sôi nổi, nề nếp và có hiệu quả.
        Mặt trận Liên Việt gồm các ông
       Ông Trần Thúy Doanh, Chủ tịch.
       Ông Dương Ngọc Võ, Phó Chủ tịch.
       Ông Hồ Kim Lân, thư ký.
       Chấp ủy Việt Minh gồm các ông
       Ông Lê Tiến Việt, Bí thư.
       Ông Hồ Văn Oanh, Phó Bí thư.
       Ông Thái Văn Đào, thư ký. Nông dân cứu quốc
       Thanh niên cứu quốc: Bùi Văn Cư.
       Phụ nữ cứu quốc: Bà Dương Thị Thỉnh.
       Việt Nam cứu quốc: Ông Nguyễn Thế Đắc.
          Các tổ chức chính quyền, đoàn thể được kiện toàn, các thôn xóm được hợp nhất, từ 38 đơn vị cũ nay hợp nhất còn 18 chòm, phân chia như sau: Phú Xuân (Xuân Úc), Đại Đồng, Xuân An, Ái Quốc là những chòm của xã Xuân Liên cũ. Còn lại các xóm được sắp xếp như sau: Tân Xuân, Sông Lô, Quyết Tiến (Hồng Châu) Thăng Long, Đồng Chính, Tiến Hóa, Quỳnh Lâm, Bắc Sơn, Hồng Phong, Yên Thành, Hồng Việt, Hồng Lương, Hồng Lạc, Tân Thái.
          Sau khi ổn định tổ chức Đảng, chính quyền cùng các đoàn thể tiến hành cuộc vận động hiến điền đưa ruộng đất về tay nhân dân lao động. Đây là lần đầu tiên chúng ta trưng thu, trưng mua ruộng đất của địa chủ, phú nông để lấy quỹ nuôi bộ đội và chia một phần cho nông dân không có ruộng cày. Trong nửa đầu năm 1950, xã Quỳnh Xuân đã trưng thu hàng trăm mẫu ruộng chia cho nông dân. Tháng 6/1950, Huyện ủy, Ủy ban kiểm tra hành chính huyện tổ chức cuộc họp liên xã gồm: Quỳnh Xuân, Quỳnh Thạch, Quỳnh Thanh, Quỳnh Đôi về việc vận động những người có nhiều ruộng đất hiến điền. Đây là đợt làm thí điểm tập trung ở đồn điền Trịnh Môn. Nhờ công tác tuyên truyền vận động, Trần Thúy Doanh đã tự nguyện hiến 65% tổng diện tích của đồn điền. Do vậy, Ban quản trị đồn điền Trịnh Môn được thành lập. Tiếp theo là Trần Mai (em ruột của ông Trần Thúy Doanh là Ủy viên quân sự chính quyền lâm thời của huyện Quỳnh Lưu) ủng hộ 200 mẫu, ông được bầu vào Ban quản trị đồn điền.
      Đầu năm 1948, địch tăng cường đánh phá vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Dọc bờ biển huyện Quỳnh Lưu, địch đã do thám và tiến hành nhiều cuộc tập kích lớn nhỏ nhưng đều bị quân và dân ta phát hiện và đánh bại. Âm mưu của địch là thăm dò để đổ bộ phá hoại hậu phương kháng chiến, đồng thời thăm dò lực lượng ứng phó và làm phân tán lực lượng vũ trang chủ lực của ta để chúng tập trung vào những chiến trường trọng điểm.
       Rạng sáng ngày 5/10/1949, tháng 10/1949, giặc Pháp bất ngờ đổ bộ lên nhiều xã thuộc vùng ven biển huyện Quỳnh Lưu. Âm mưu của giặc Pháp trong cuộc hành quân này nhằm phá những trung tâm dự trữ lực lượng cho cuộc kháng chiến. Mặt khác, tấn công lên Quỳnh Lưu nhằm phân tán lực lượng bộ đội chủ lực của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với tiền tuyến.
       Để đạt được những mục đích ấy, sáng ngày 5/10/949 (tức 14-8/ âl), hơn 1000 tên địch gồm 400 lính Pháp, 100 lính da đen, 500 ngụy quân  với sự yểm trợ của 5 chiếc máy bay (trong đó có một chiếc thủy phi cơ Ca ra ti nát) và 4 tàu chiến cùng một hàng không mẫu hạm, lén lút mở cuộc đổ bộ lên các xã ven biển của huyện Quỳnh Lưu.
       Sau khi đổ bộ lên bờ, lực lượng bộ binh địch chia làm 3 cánh tấn công vào huyện Quỳnh Lưu.
       Cánh thứ nhất gồm 100 tên lính Pháp, 300 ngụy binh theo Lạch Cờn tràn vào xã Văn Phương (Quỳnh Phương).
       Cánh thứ hai gồm 300 lính Pháp và da đen cùng 200 ngụy quân theo Lạch Thơi đổ lên Thuận Hóa và Ngọc Long (Quỳnh Thuận – Quỳnh Long).
       Cánh thứ ba gồm 120 lính Pháp và một số ngụy binh đổ vào Lạch Quèn càn lên Phú Nghĩa (Quỳnh Nghĩa – Tiến Thủy).
       Trước cuộc tập kích bất ngờ của địch, bước đầu quân và dân Quỳnh Lưu lâm vào thế bị động, lúng túng. Có một số nơi giặc tràn vào đầu làng mà dân quân du kích vẫn không hay biết, có người đã nhầm địch là đồng bào mình đi chợ hoặc lấy củi.
       Nhưng sau đó, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban khánh chiến hành chính huyện, Huyện đội Quỳnh Lưu, cấp ủy, chính quyền ở các địa phương đã khẩn trương triển khai lực lượng chiến đấu và tổ chức cho đồng bào tản cư. Đại đội C120 của huyện Quỳnh Lưu đã nhanh chóng hành quân xuống các làng có chiến sự để phối hợp với dân quân du kích đánh địch. Một trung đội đã theo Quốc lộ 1A hành quân xuống Văn Phương chặn cánh quân địch đổ bộ lên cửa Cờn. Một trung đội khác theo đường 37 tiến xuống chặn cánh quân địch ở Ngọc Long, Thuận Hóa lên.
        Cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra quyết liệt tại cầu Trốc Voi (thuộc dãy núi Tùng Lĩnh). Tại đây 13 tên địch phải đền tội. Trên đường tháo chạy, bọn địch đã cướp xe ba gác của đồng bào ta để kéo xác đồng bọn. Sau đó, chúng chiếm núi Lạp (một cao điểm ở phía Nam xã Song Quỳnh, gần Quốc lộ 1A). Tại đây, quân Pháp đã dùng súng máy khống chế con đường Quốc lộ 1A, sau đó một bộ phận bộ binh địch kéo vào các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Quỳnh Văn… Chúng lùng sục, tìm kiếm phương tiện và bắt thêm người để khiêng xác đồng bọn, cáng những tên bị thương. Dân quân du kích tổ chức chặn đánh địch, ở Quỳnh Tụ. Trong lúc đối đầu, đồng chí Hồ Sỹ Hội bị địch bắn hi sinh. Khi địch kéo đến làng, du kích Trần Ôn đang giơ lựu đạn để ném thì bị chúng bắn chết.
       Một toán địch vào chòm Nghĩa Vụ bắt thêm người rồi rút. Vào làng Quỳnh Văn, chúng kéo qua chòm Yên Thịnh. Địch không dám đi trên đường vì sợ mìn của du kích. Chúng phải lội giữa các ruộng bùn, có tên phải cởi bỏ cả giày. Vượt qua Yên Thịnh, chúng hợp quân rồi kéo vào Quỳnh Hậu. Ở xã Song Quỳnh, chúng đã giết hại 8 người dân gồm: Hồ Sỹ Hội, Phan Đình Trường, Trần Ôn, Lê Tiến Khoách, Nguyễn Huy Biểu, Đậu Đức Miêu và bắt đi 18 người.
       Sau ba ngày đêm chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang cùng dân quân du kích các xã trong huyện đã kìm chân địch, đánh địch một cách anh dũng. Chúng ta đã tiêu diệt 113 tên địch trong đó có 63 tên lính Pháp và Âu - Phi, nhiều tên bị thương. Chiều ngày 7/10/1949, địch phải tháo chạy ra biển. Chúng bắt đi 108 người, đốt phá 674 nóc nhà, 135 thuyền và cào phá nhiều héc ta ô nại muối. Ta hy sinh hơn 20 chiến sỹ (bộ đội và dân quân du kích), 151 người dân bị chúng giết chết, 50 người bị thương.
       Đánh giá ý nghĩa của cuộc chống càn thắng lợi. Báo “Truyền thanh kháng chiến” ra số ngày 8/10/1949, của cơ quan thông tin Nghệ An viết: “điều chắc chắn là giặc chỉ muốn quấy rối rồi rút, nhưng nếu chúng ta đối phó yếu ớt thì giặc sẽ ở lại và đánh chiếm lan rộng ra”.
       Phấn khởi vì cuộc chống càn thắng lợi, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Dưới sự chỉ đạo của chính quyền, nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên càng nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tay sai đến thắng lợi cuối cùng.
Tuy bị thất bại trong trận càn tháng 10/1949, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ phá hoại vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Chúng vẫn thường xuyên cho máy bay trinh sát bắn phá, cho biệt kích đột nhập bằng đường biển, quấy rối hậu phương, gây khó khăn cho chúng ta về mọi mặt.
       Đầu năm 1951, thực hiện chủ trương của Trung ương chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội Chi bộ xã Quỳnh Xuân được tiến hành tại đình làng Yên. Đại hội đã đánh giá những thành tựu đã đạt được sau 5 năm xây dựng chính quyền mới của nhân dân Xuân Liên, Song Quỳnh và rút ra bài học kinh nghiệm trong việc chỉ đạo kháng chiến, nhất là việc chống càn năm 1949. Đại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, chỉ ra lợi thế về diện tích đất tự nhiên khoảng 5 ngàn ha, dân số hơn 5 ngàn người, có một đội ngũ cán bộ trẻ hăng hái, nhiệt tình, với số lượng đảng viên hơn 250 đồng chí, nhân dân cần cù lao động, tiết kiệm, tin tưởng vào Đảng, chính quyền. Tất cả những yếu tố đó tạo nên sự vững chắc trong quá trình xây dựng quê hương, tiếp tục thực hiện nghĩa vụ cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến đang bước sang giai đoạn phản công đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đại hội bầu ra chi ủy mới, đồng chí Vũ Văn Thống được bầu làm Bí thư.
       Nhằm tập hợp lực lượng để huy động đến mức cao nhất mọi nhân tài, vật lực cho các chiến trường, Đảng chủ trương đưa một số nhân sĩ, tri thức tiến bộ và một số tá điền tham gia bộ máy chính quyền, đoàn thể, do đó Trần Thúy Doanh tuy là địa chủ lớn nhưng vẫn được bầu làm chủ tịch Mặt trận Việt Minh xã Quỳnh Xuân.
       Tuy có nhiều lần thay đổi về địa giới, nhưng những đảng viên của con em Quỳnh Xuân luôn khẳng định được tính tiên phong, gương mẫu của mình trong việc chỉ đạo ở địa phương. Trải qua quá trình công tác, thử thách, các đảng viên đã không ngừng rèn luyện để thích ứng với những thay đổi của tình hình, trung thành tuyệt đối với Đảng, với lợi ích của nhân dân, vì dân mà phục vụ.
       3. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đưa cuộc kháng chiến giành thắng lợi.   
  Đi đôi với việc xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu chống trả kẻ thù, nhân dân  Quỳnh Xuân, chăm lo phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất.
       Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, nhằm có đủ lương thực chi viện cho chiến trường, cùng với việc sản xuất rau màu để tự cứu mình, thực hiện chủ trương của chính phủ về đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhân dân toàn xã Quỳnh Xuân đã tiến hành tổ chức khai hoang, phục hóa, cải tạo diện tích đất bị nhiễm phèn, mặn thành những cánh đồng lúa, cải tạo gò đống thành nương khoai, bãi sắn, từ những đồng cồn hoang thành những trang trại canh tác. Ngoài ra, một số gia đình đã có ý thức làm hố xí hai ngăn để ủ phân làm tăng lượng phân bón. Các bà, các chị tự học cày, học bừa để chồng con yên tâm lên đường đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Bản thân họ còn tham gia hàng vạn ngày công đào mương máng, kênh tiêu phục vụ sản xuất.
          Năm 1953, xã bắt đầu xây dựng các tổ vần công, đổi công, chủ yếu trong nông dân. Cứ ba bốn hộ gia đình thành một tổ. Trong từng tổ, các gia đình có nhiều lao động đi làm đổi công cho các gia đình có trâu bò. Việc vần công, đổi công đã tạo nên tinh thần đoàn kết trong nông thôn, bước đầu thành lập tổ hợp giúp nhau trong sản xuất.
       Cuối năm 1953, Chính phủ quyết định triệt để giảm tô. Mức giảm tô đặt ra là 25%, tức là những người có ruộng phát canh thu tô thì hàng vụ phải giảm 25% số thu của nông dân. Thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và chính phủ, công cuộc cải cách ruộng đất và giảm tô đã được triển khai từng bước. Ở vùng tự do, hậu phương của cuộc kháng chiến, cuộc vận động lớn này đã thu hút được sự tham gia của mọi lực lượng quần chúng mà đông đảo nhất là tầng lớp bần cố nông ở nông thôn.
          Đây là một cuộc đấu tranh giai cấp hết sức gay go, quyết liệt. Giai cấp địa chủ, phú nông nắm trong tay nhiều ruộng đất có mối liên hệ chặt chẽ với thực dân, đế quốc không dễ từ bỏ đặc quyền, đặc lợi và bản chất bóc lột của giai cấp thống trị.
        Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ, chính quyền và các đoàn thể đã dựa vào sức mạnh to lớn của quần chúng, buộc đại đa số địa chủ, phú nông phải thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức cho nông dân. Những địa chủ lớn buộc phải thoái tô 40-50%. Riêng địa chủ Trần Thúy Doanh có trên 4.000 mẫu ruộng, lại có thái độ ngoan cố trong việc thực hiện giảm tô, giảm tức cho nên đã bị chính quyền cách mạng tịch thu toàn bộ ruộng đất và bắt đi cải tạo(1).
          Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, trên lĩnh vực phát triển kinh tế, xã Quỳnh Xuân đã thực hiện đầy đủ các quy định của Chính phủ. Vừa phát triển kinh tế, vừa tham gia kháng chiến, nhân dân Hữu Lộc đã thực hiện tốt khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, đóng góp từng bát gạo, đồng tiền để nuôi quân đánh giặc. Đời sống nhân dân tuy có nhiều khó khăn nhưng thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”, nhân dân hết sức tự giác đóng góp sức người, sức của cho chiến trường.
          Trên mặt trận văn hóa: Được cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm và các đoàn thể tích cực vận động, phong trào bài trừ các tệ nạn mê tín dị đoan, đồng bóng cơ bản được xóa bỏ. Tình trạng ăn uống linh đình, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi cũng được hạn chế đến mức thấp nhất. Các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ đã đứng ra tổ chức đám cưới cho các đôi nam nữ với những hình thức tươi vui và tiết kiệm. Một số cặp vợ chồng đã tự nguyện dành số tiền cưới để giúp “quỹ kháng chiến” mua sắm vũ khí đánh giặc(1).
       Phong trào văn hóa - văn nghệ phục vụ công cuộc chiến đấu và sản xuất cũng được đẩy mạnh. Toàn xã đã lập được một đội văn nghệ gồm 20 người. Đội vừa tổ chức biểu diễn văn nghệ vừa làm công tác thông tin, cổ động, tuyên truyền phục vụ kháng chiến. Ngoài các vở như: Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa, đội còn dàn dựng các vở về Trần Hưng Đạo, Đội Cung, Lê Lợi… Các buổi biễu diễn thu hút được đông đảo quần chúng đến xem và được hoan nghênh nhiệt liệt.
       Những hoạt động văn hóa, văn nghệ của Quỳnh Xuân lúc bấy giờ vừa có tác dụng động viên, giáo dục tinh thần, ủng hộ kháng chiến trong dân chúng, vừa tạo được nguồn ngân sách để hoạt động.
       Công tác y tế tuy còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nhưng các đồng chí y tá, hộ sinh lúc đó đã tận tình vận động bà con ăn chín, uống sôi, cách phòng trừ dịch bệnh. Cơ sở của trạm y tế trong chín năm kháng chiến được đặt ở Giếng Năn (nay thuộc địa phận xã Quỳnh Văn) do ông Hồ Tế phụ trách và chị Báu (người Quỳnh Phương) làm công tác hộ sinh. Tuy cơ sở vật chất còn nghèo nàn, thiếu thốn nhưng với tấm lòng nhiệt tình và lương tâm của người thầy thuốc, các anh, chị đã góp phần giải quyết được nhiều khó khăn cho đồng bào địa phương khi họ đau ốm, sinh nở…
       Phong trào làm sạch làng, tốt ruộng được phát động mạnh mẽ trong dân chúng, đã góp phần làm hạn chế các ổ dịch bệnh. Tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” không còn xẩy ra trầm trọng như thời thuộc Pháp nữa.
       Từ kết quả của phong trào xóa nạn mù chữ trong những năm đầu sau cách mạng tháng Tám, đến giữa cuộc kháng chiến chống Pháp, công tác Bình dân học được đẩy mạnh, tại Quỳnh Xuân đã mở được một trường Tiểu học tại Đình Đoài, thu hút được nhiều thanh. thiếu niên theo học. Bên cạnh đó, công tác bình dân học vụ cho các đối tượng lớn tuổi tiếp tục được duy trì một cách đều đặn và đi vào nề nếp. Vượt qua muôn vàn khó khăn, Quỳnh Xuân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xóa nạn mù chữ.
       Kết quả của phong trào thi đua ái quốc, các đoàn thể quần chúng ngày càng được củng cố vững mạnh và góp phần đắc lực vào việc thực hiện các nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Để giáo dục đoàn viên, các cơ sở đoàn thanh niên đã có sáng kiến lấy tên các vị anh hùng dân tộc như: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Đội Cung, Trần Phú…để đặt cho tổ chức mình. Giữa các đoàn thể thanh niên, phụ nữ và các đoàn thể khác cũng thường xuyên phát động thi đua với những hình thức thưởng phạt rất nghiêm minh (huy hiệu làm bằng một dải vải đỏ, có đính 5 ngôi sao bằng vàng) và các hiện vật.
        Phát triển kinh tế - xã hội trong chín năm kháng chiến đã củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp kháng chiến của nhân dân nhất định thắng lợi. Đồng thời tạo nên sức mạnh cho cán bộ và nhân dân xã nhà vươn lên lập được nhiều thành tích trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để bảo vệ quê hương, đất nước.
       Từ giữa năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước sang giai đoạn tổng phản công. Tháng 9 -1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 -1954, quân và dân ta đã chủ động mở hàng loạt các chiến dịch tấn công trên nhiều hướng như: Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Bắc Tây Nguyên.... qua đó ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó. Trên chiến trường Điện Biên Phủ, quân đội ta đã chiến đấu dũng cảm, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.    
          Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, tạo đà cho việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hoà bình ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta kết thúc thắng lợi.
          Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Quỳnh Xuân (Chỉ tính Phường Quỳnh Xuân hiện nay) đã có nhiều đóng góp sức người, sức của hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Bắc, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến. Quỳnh Xuân đã có hơn 50 thanh niên gia nhập quân đội, trong đó có 13 đồng chí đã anh dũng hi sinh trên các chiến trường, 4 đồng chí là thương binh các loại. Máu xương của những người con quê hương Quỳnh Xuân đã góp phần tô thắm lá cờ quyết chiến, quyết thắng của quân đội nhân dân Việt Nam. Toàn xã có 1.234 lượt người đi dân công, phục vụ các chiến dịch(1). Nhiều anh chị em dân công đã ngã xuống trên những con đường đưa hàng ra mặt trận(2). Để đưa được một đoàn dân công lên đường đi tiếp vận, dân làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Xuân An, … đã phải thức trắng đêm để chuẩn bị quang gánh, thuốc men, lương thực cho anh chị em dân công. Các cụ  đẵn tre, đan sọt, đẽo đòn ghánh. Các mẹ, các chị xay thóc, dã gạo, thổi xôi, đùm bánh… kịp cho anh chị em dân công lên đường. Gia đình nào có người đi dân công mà nhà hết tiền, hết gạo bà con chòm xóm tổ chức đỡ đần. Ai chưa cấy dắm xong có bà con đến giúp đỡ.  Các Chi đoàn thanh niên tổ chức lao động gây quỹ để hoạt động và tham gia các phong trào đóng góp cho kháng chiến. Có đợt Chi đoàn Nguyễn Trãi đã ủng hộ cho kháng chiến 800 đồng, chi đoàn Ngô Quyền 600đ v.v.
          Với tinh thần tương thân, tương ái, cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, nhân dân Quỳnh Xuân qua 9 năm kháng chiến luôn luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu đóng góp về quân số, lương thực và thực phẩm cho tiền tuyến, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của chi bộ, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng "kháng chiến toàn dân, toàn diện", "trường kỳ kháng chiến, kháng chiến nhất định thắng lợi" và "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Chấp hành nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, huyện. Qua từng thời kỳ cách mạng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo để đề ra những chủ trương phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Từ đó khơi dậy được tinh thần yêu nước, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Qua cuộc kháng chiến, chi bộ không ngừng phát triển, trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, đảng viên có ý chí kiên cường, chịu đựng hi sinh gian khổ, luôn tiên phong gương mẫu đi đầu các phong trào.
 
 
   CHƯƠNG IV
QUỲNH XUÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
      
I. KHÔI PHỤC KINH TẾ, TIẾN HÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954 - 1964)
       1. Chống cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, khôi phục kinh tế, hn gắn vết thương chiến tranh
        Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ (7/1954). Hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, nhân dân ta phấn khởi bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Nhưng miền Nam, nửa đất nước thân yêu đang tạm thời chịu sự kiểm soát của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng với bè lũ tay sai vẫn âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới. Miền Bắc được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cơ bản hoàn thành và chuyển sang giai đoạn Cách mạng xã hội Chủ nghĩa. Miền Nam tạm thời chịu sự kiểm soát của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, nên cách mạng miền Nam phải tiếp tục Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, tiến lên cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
       Ngày 25/5/1954, xã Quỳnh Xuân được chia làm 3 xã: Quỳnh Tùng, Quỳnh Văn, Quỳnh Liên. Tên xã đã định, theo đó tài sản, địa giới cũng được hoạch định. Chi bộ, chính quyền, đoàn thể được thiết lập mang tên xã mới.
       Tuy thoát khỏi ách áp bức của thực dân Pháp nhưng Quỳnh Xuân phải đối mặt với thiên tai, trong năm 1954, trời hết hạn hán lại mưa lũ liên tiếp xảy ra, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản của người dân. Thu hoạch giảm mạnh, năng suất thấp (trung bình chỉ đạt khoảng 1,2 tấn/ha). Đời sống Nhân dân cực kỳ khó khăn, tình trạng đói kém kéo dài. Mặt khác, để gây mất ổn định ở niền Bắc, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã cấu kết với bọn đội lốt tôn giáo ráo riết dụ dỗ, vận động đồng bào Thiên chúa giáo ở miền Bắc di cư vào Nam, với luận điệu: "Chúa đã vào Nam, ở lại miền Bắc là mất đạo". Ở Quỳnh Xuân, tại hai làng Xuân An, Sông Lô nhiều gia đình giáo dân nghe theo lời dụ dỗ, dọa nạt của địch, đã bán hết nhà cửa, của cải, bỏ ruộng vườn, làng xóm, kéo nhau lên chính quyền đòi cho tự do di cư đi vào Nam, tình hình xã hội ở địa phương có nhiều diễn biến phức tạp.
       Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện, cấp ủy và chính quyền Quỳnh Xuân cũng như các xã có đồng bào theo đạo thiên chúa đã phân công cán bộ, đảng viên xuống từng thôn, xóm vận động, thuyết phục giáo dân giúp họ nhận thấy rõ âm mưu thâm độc của địch, yên tâm ở lại quê hương làm ăn. Đồng thời Chi bộ Đảng vận động đồng bào bên “lương” góp tiền, góp vật liệu … giúp đỡ các gia đình giáo dân dựng lại nhà cửa, tổ chức lại cuộc sống. Nhờ vậy, nhiều giáo dân đã yên tâm ở lại quê hương tiếp tục làm ăn sinh sống.
         Cùng với công tác chống địch cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, từ tháng 9/1954, Quỳnh Xuân cũng khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện vật chất và tinh thần để đón cán bộ và chiến sỹ miền Nam tập kết ra Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ. Tuy nhà cửa và hoàn cảnh kinh tế của đại đa số nhân dân trong lúc này còn rất nhiều khó khăn nhưng với tinh thần và tình cảm "Nam - Bắc một nhà" gia đình nào cũng tự nguyện xin đón những người con quê hương miền Nam tập kết ra Miền Bắc về ăn, nghỉ ở nhà mình. Chính quyền, các đoàn thể quần chúng giành những điều kiện tốt nhất để đón cán bộ, chiến sỹ đồng bào Miền Nam, sớm ổn định, hòa nhập vào cuộc sống lao động, sinh hoạt chung trong xã.
        Đế quốc Mỹ và tay sai cố tình phá hoại Hiệp định Giơnevơ, âm mưu chiếm đóng lâu dài miền Nam, những chiến sỹ và con em miền Nam tập kết ra Bắc được Đảng, Nhà nước chuyển về xây dựng nông trường Trịnh Môn. Nhiều người trong số họ đã được địa phương giúp đỡ xây dựng gia đình, làm nhà cửa, ổn định cuộc sống lâu dài trên vùng quê mới.
2.Hoàn thành cải cách ruộng đất (1955 - 1957)
Trong kháng chiến chống Pháp (giai đoạn 1949 - 1953) và những ngày đầu hòa bình, Nhân dân Quỳnh Xuân đã từng bước đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức nhưng chưa thực hiện triệt để nên phần lớn ruộng đất còn nằm trong tay địa chủ và phú nông. Sau khi niền Bắc được giải phóng, Đảng ta quyết định tiến hành cải cách ruộng đất nhằm thực hiện ước mơ ngàn đời “người cày có ruộng” trở thành hiện thực. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII (3/1955) chỉ rõ: "Trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất... đẩy mạnh cải cách ruộng đất đã đoàn kết được đại đa số nhân dân, củng cố được công - nông liên minh, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng; mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện để tăng cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng"(1).
       Thực hiện chủ trương của trên, đầu năm 1955, ba huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành được chọn làm điểm chỉ đạo thí điểm tiến hành cải cách ruộng đất đợt 4 của tỉnh Nghệ An. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng đại của Đảng ta nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho người cày. Vì thế, cuộc cải cách ruộng đất đã diễn ra quyết liệt, thu hút được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp bần, cố nông.
       Tại Quỳnh Xuân, cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ tháng 3/1955, Đội cải cách về xã, phân công cán bộ về từng thôn, xóm tiến hành ba cùng: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với bần, cố nông, "bắt rễ, xâu chuỗi" trong bần, cố nông và người lao động để khảo sát tình hình và hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống giai cấp địa chủ. Cuộc cải cách ruộng đất đã thu được kết quả lớn: 127 mẫu ruộng, 6 căn nhà, 13 con trâu và hàng trăm nông cụ sản xuất để chia cho nông dân lao động. Nông dân thực sự trở thành người chủ nông thôn. Ruộng đất về tay dân cày, niềm mơ ước ngàn đời của người nông dân được thực hiện. Đó là thắng lợi, thành tựu to lớn của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã mắc phải một số sai lầm đáng tiếc, đó là việc quy kết thành phần địa chủ, phú nông không dựa vào tiêu chuẩn phân định thành phần giai cấp do Đảng và Chính phủ đã ban hành; Nhiều nơi quy kết tràn lan, miễn là đạt “chỉ tiêu” do đội cải cách đề ra, gây hoang mang dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Một số cán bộ, đảng viên có nhiều thành tích, công lao trong sự nghiệp cách mạng trước đó, đến cải cách ruộng đất đã bị đấu tố, bị tù đày hoặc bị tịch thu tài sản…
       Nhận rõ những sai lầm phạm phải trong chỉ đạo cải cách ruộng đất, tháng 4/1956, Đảng đã ra Chỉ thị sửa sai. Ngày 18/8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào và toàn thể cán bộ, đảng viên. Sau khi chỉ rõ những thắng lợi cùng những sai lầm phạm phải trong cải cách ruộng đất. Người đề ra phương hướng sửa sai và kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng và Chính phủ.
       Thực hiện chủ trương của cấp trên, Quỳnh Xuân tiến hành việc sửa sai kịp thời, nghiêm túc. Một bộ phận đáng kể trong số những người bị quy thành địa chủ được xem xét, sửa sai thành phần. Những người bị xử lý sai được khôi phục quyền lợi, danh dự, công tác. Nhiều cán bộ, đảng viên có công với cách mạng được phục hồi đảng tịch, được tham gia chính quyền, đoàn thể và tiếp tục cống hiến công sức và trí tuệ vào việc xây dựng quê hương, đất nước. Công tác sửa sai nhanh chóng hoàn thành, trật tự, xã hội ổn định, khối đoàn kết toàn dân được giữ vững, tạo niềm tin vững chắc của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền.
       Thắng lợi của cuộc cải cách và kết quả của việc sửa sai đã tạo ra một động lực mới, người dân hăng hái khai hoang, tham gia cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh tăng gia phát triển sản xuất, chăn nuôi, vì thế năng suất không ngừng nâng lên, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đó là tiền đề để Quỳnh Xuân thực hiện thắng lợi Kế hoạch 3 năm (1958-1960) về cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa.
       3. Công cuộc xây dựng HTX nông nghiệp (1958 - 1964)
       Bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Chi bộ và chính quyền tập trung vào việc vận động xây dựng các tổ đổi công. Tính đến cuối năm 1958, toàn xã thành lập được 28 tổ đổi công. Nhờ có tổ đổi công nông dân đã giúp nhau giải quyết được nhiều khó khăn, về sức kéo, về giống và bảo đảm kịp thời vụ. Các tổ đổi công đã giúp nhau khai hoang được trên 100 héc ta dọc các triền núi Mù U, Lèn Chùa và cải tạo được hàng chục héc ta đất chua mặn ở vùng Cầu Hủ, Đồng Diệc, Đồng Chào v.v.
       Tháng 12/1958, Hội nghị lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương lớn: "Đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa; đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân", khâu chính là cải tạo và phát triển nông nghiệp.
       Những năm 1959-1960, sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện khí hậu và thời tiết không bình thường. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, sâu phá hoại rừng thông ở vùng Hoàng Mai rất nghiêm trọng. Nếu không kịp thời diệt sâu thì hàng ngàn hécta thông có giá trị kinh tế cao và làm lá phổi cân bằng môi trường sinh thái. Thực hiện Thông tri 252 ngày 23/12/1959 của Huyện ủy, Quỳnh Xuân đã phối hợp với Trạm lâm nghiệp, đồng thời huyện huy động giáo viên, học sinh phối hợp với thanh niên các xã đến rừng thông để diệt sâu, nhờ vậy rừng thông đã được cứu sống. Năm 1962, nắng hạn 172 ngày liền gây khó khăn cho sản xuất.
       Quỳnh Lưu - huyện có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, vì thế nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Cuộc vận động lớn đã tập trung sự chỉ đạo của các ngành, các cấp và của các Đảng bộ trong huyện. Tại Quỳnh Xuân, hàng trăm gia đình nông dân đã tự nguyện viết đơn gia nhập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Hầu hết cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng và Nhà nước, đi đầu trong công cuộc xây dựng hợp tác xã.
       Các cấp ủy Đảng, đoàn thể vừa kiên trì thuyết phục, vận động, vừa thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt như: “khoanh vùng, đổi ruộng”, kỷ luật những cán bộ, đảng viên không chấp hành chủ trương vào hợp tác xã. Việc xây dựng hợp tác xã ở hai xóm giáo dân Xuân An và Sông Lô diễn ra chậm hơn do ở đây bị một số phần tử phản động xúi giục và khống chế nên giáo dân không dám viết đơn gia nhập hợp tác xã. Để vận động giáo dân vào hợp tác xã. Chi bộ, chính quyền đã cử một số cán bộ, đảng viên xuống địa bàn cùng ăn, ở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, nói rõ để bà con hiểu rõ, hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thành lập hợp tác xã đồng thời dựa vào những giáo dân cốt cán như: Hồ Đạo, Hồ Bá, Nguyễn Tiêu, Vũ Định v.v… để tổ chức xây dựng các hợp tác xã ở hai xóm; kiên quyết xử lý nghiêm những phần tử phản động. Trải qua những tháng, ngày kiên trì vận động, thuyết phục của cán bộ chính quyền, đoàn thể, đến cuối năm 1960, Xuân An và Sông Lô đã thành lập được hai hợp tác xã nông nghiệp với sự tham gia của đông đảo giáo dân. Nhờ sự nổ lực của giáo dân, sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo và nhân dân toàn xã, các hợp tác xã của đồng bào theo đạo Thiên Chúa ngày càng được củng cố và mở rộng về quy mô; đồng đất được cải tạo; năng suất lúa ngày càng cao...
       Năm 1961, toàn xã xây dựng được 13 hợp tác xã nông nghiệp gồm: Đồng Cẩm, Đại Sơn, Yên Bái, Đông Thái, Yên Thượng, Yên Xuân, Yên Ninh, Đông Ninh, Đông Xuân, Độc Lập, Vinh Quang, Vinh Hoa, và Tiến Bộ.
       Cùng với xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán được thành lập nhằm mua lương thực, thực phẩm để chuyển lên huyện và mua hàng tạp hóa về phục vụ nhu cầu của nhân dân.
       Thắng lợi của công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp, trong những năm đầu đã có tác dụng thúc đẩy phong trào sản xuất phát triển, thúc đẩy các hoạt động khác ở địa phương.
       Ruộng đất được công hữu, tạo thuận lợi cho việc quy hoạch đồng ruộng. Dù là vùng bán sơn địa nhưng đồng ruộng Quỳnh Xuân không còn cảnh manh mún, bờ cao, bờ thấp như trước. Các đội chuyên về giống, về thủy lợi cũng được hình thành góp phần làm tốt khâu chọn giống và phòng trừ sâu bệnh v. v… Nhiều hộ xã viên sau vài ba vụ sản xuất đã làm được nhà ngói, sân nề. Đời sống của đa số hộ nông dân khá hơn trước lúc gia nhập hợp tác xã. Quan hệ sản xuất mới được hình thành, lề lối làm ăn tập thể từng bước phát huy tác dụng, nhất là việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, nhờ vậy năng suất, diện tích lúa trên địa bàn tăng lên đáng kể.
       Trong quá trình xây dựng hợp tác xã, việc các hộ gia đình viết đơn vào các hợp tác xã một cách ồ ạt "theo phong trào" đã vi phạm nguyên tắc dân chủ. Vì vậy trong thời gian ngắn, phong trào xây dựng hợp tác xã còn mang nhiều yếu tố chủ quan, chưa hiểu thấu đáo về cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, chú trọng nhiều đến việc giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất như: Công hữu hóa trâu, bò, công cụ sản xuất... và chưa thực sự chú ý đến công tác quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã.
       Đi đôi với việc tổ chức các hợp tác xã nông nghiệp, phong trào làm thủy lợi, đẩy mạnh khai hoang, phục hóa cũng được Đảng và chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1958-1959, tham gia chiến dịch tiếng trống Xô - Viết do tỉnh phát động, cuộc vận động lớn đã tập trung vào lao động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, là cơ sở để Quỳnh Xuân đẩy mạnh việc xây dựng tổ đổi công, cải tiến kỹ thuật, tiến tới xây dựng các hợp tác xã.
       Năm 1958, Quỳnh Xuân đã tham gia hàng trăm ngày công đắp đập Khe Bung (Hoàng Mai), lấy nước tưới cho một số diện tích khu vực đập tràn La Man do huyện phát động. Cao trào làm thủy lợi mạnh nhất là từ năm 1963, làm kênh tiêu úng Bình Sơn từ xiphông sông 17 chảy qua nhiều xã, trung tâm vựa lúa của huyện, xây dựng đập An-Ngãi(1) (đập Ba Tùy thuộc Quỳnh Văn, nay là Quỳnh Tân), ngăn 11 con suối lớn, tạo thành hồ để tưới nước cho hàng ngàn hécta ruộng ở phía Bắc huyện. Nhân đà khí thế đang sôi nổi, xã lấy lực lượng 300 người làm đập An Ngãi hoàn thành về đắp đập khe Dứa, chi trong một thời gian ngắn đã hoàn thành. Đội quân làm thủy lợi Quỳnh Xuân, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vượt chỉ tiêu, là một trong những địa phương đầu tiên được ghi vào lá cờ luân lưu của Bác Hồ tặng huyện Quỳnh Lưu.
       Đi liền với việc khai hoang, mở rộng diện tích, công tác vận động nhân dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới luôn được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Bởi vì với bình quân diện tích không quá 2 sào/1 nhân khẩu, trình độ canh tác lạc hậu dù cố gắng thâm canh, người dân lao động cũng khó có mức sống khá. Trong lúc đó, nhiều vùng đất ở khu vực núi Mù U, Tùng Lĩnh v.v.. chưa được tận dung khai thác. Để có một người dân chuyển đến vùng đất hoang hóa, Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể địa phương phải trải qua bao khó khăn, gian khổ. Bởi bà con đã bao đời gắn bó với nơi chôn rau, cắt rốn dù nơi đó đất chật, người đông, đời sống lam lũ. Nhưng với trách nhiệm trước cuộc sống của nhân dân lao động, Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể đã kiên trì vận động cán bộ và nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Kết quả đến năm 1962, đã có 100 hộ dân chuyển lên thành lập nông trang Lê Lợi và các nông trang, cơ sở ban đầu của xã Quỳnh Tân hôm nay.(1)
       Để tạo lập nên những vùng quê mới, cán bộ và nhân dân đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt khi phải rời xa quê hương cũ, biết bao những khó khăn gian khổ trong buổi đầu xây dựng quê hương mới.
       Trong công tác di dân, xây dựng các vùng kinh tế có sự đóng góp của những cán bộ, đảng viên như các đồng chí: Lê Hữu Hộ (nguyên Chủ tịch Ủy ban hành chính xã), Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Đình Nhậm, Nguyễn Đình Khuyến v.v… Sự có mặt của các đồng chí ở vùng đất mới đã động viên, cổ vũ được những người khác yên tâm ở lại góp công, góp sức xây dựng Quỳnh Tân, quê hương mới ngày  thêm giàu đẹp.
       Công cuộc tập thể hóa trong nông nghiệp và những kết quả của các mặt sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp đã làm cho đời sống của đại đa số nhân dân ngày càng được cải thiện. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế cũng có những bước chuyển biến đáng kể.
       Năm 1961, trường cấp 1 được xây dựng. Ngày đầu thành lập tuy cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, nhưng đã có nơi cho hàng trăm con em nhân dân lao động học tập.
          Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh, được chính quyền và các đoàn thể chăm lo, quan tâm đứng mức. Trạm Y tế được xây dựng năm 1955, tại giếng Đồng nay thuộc khối 18 (được tách từ hộ sinh Quỳnh Tùng giếng ao xã Quỳnh Văn) lúc đầu có tên gọi nhà hộ sinh. Trạm có 5 gian, gồm: 1 phòng trực, 1 phòng sinh, 1 phòng  trực sinh, 2 phòng sản phụ nằm sau sinh.
          Năm 1964, xây dựng thêm 1 ngôi nhà 5 gian, gồm: 2 phòng làm kho thuốc đông y, tây y, 1 phòng giao ban, 2 phòng làm công tác điều trị. Trạm Y tế được xây dựng, củng cố, mạng lưới y tế thôn, xóm được xây dựng, mở rộng, thôn nào cũng có cán bộ y tế chăm sóc sức khỏe và phòng dịch cho dân. Các gia đình xã viên hợp tác xã đều đào được giếng, làm hố xí hai ngăn. Các căn bệnh xã hội như: sốt rét, thương hàn, lao phổi, đậu mùa v.v… đã được ngăn chặn kịp thời không để trở thành những ổ dịch ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân.
          Phong trào văn hóa - văn nghệ, được đẩy mạnh từ các thôn, xóm; đội văn nghệ được củng cố, thường xuyên tổ chức biểu diễn vào các ngày lễ, tết, các ngày kỷ niệm và đi giao lưu với các đơn vị trong vùng. Xã tổ chức các hoạt động thể dục thể thao như: bóng đá, cờ người, kéo co...  
          Công tác quốc phòng- an ninh được quan tâm, Đảng bộ và chính quyền đã tập trung vào hai nhiệm vụ trọng tâm:
            Một là xây dựng lực lượng dân quân làm nòng cốt trong việc bảo đảm trị an và sẵn sàng chiến đấu chống đế quốc Mỹ và tay sai.
Hai là đấu tranh chống bọn phản động đội lốt tôn giáo, bảo vệ cuộc sống yên lành của bà con giáo dân và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương.
 Lực lượng an ninh của trên đã phối hợp với chính quyền kịp thời bắt giữ một số tên phản động ẩn nấp trong hai vùng giáo Sông Lô và Xuân An, làm trong sạch địa bàn, tạo điều kiện cho giáo dân yên tâm sản xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Đảng ủy và chính quyền cũng thường xuyên chăm lo, củng cố lực lượng dân quân, du kích. Chính sách hậu phương quân đội được chú trọng, làm tốt việc cải thiện đời sống gia đình và chăm sóc con liệt sỹ, thương binh; bảo đảm đời sống cho bộ đội phục viên; đón thương binh về làng; quan tâm đến việc học hành của con em thương binh, gia đình liệt sỹ.
          Sau sửa sai cải cách ruộng đất, Ủy ban hành chính xã cùng các ban ngành được kiện toàn, bố trí lại cán bộ phù hợp với tình hình mới. Xã đội và Ban công an được củng cố, lực lượng dân quân được biên chế lại. Xã tổ chức Hội nghị phân loại đối tượng, bảo đảm an ninh, trật tự địa phương.
Đảng bộ được củng cố, lãnh đạo nhân dân bước đầu cải tạo XHCN ở nông thôn. Qua phong trào hợp tác hoá, thực hiện ba ngọn cờ hồng ở nông thôn, phong trào làm thỦy lợi, cải tạo đồng ruộng, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến hợp tác xã, thúc đẩy phong trào làm thủy lợi, dời dân khai hoang; đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa - xã hội, từng bước ổn định góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
      Qua các phong trào xuất hiện nhiều nhân tố tích cực trong thanh niên, phụ nữ và quần chúng nhân dân. Đảng bộ đã bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng XHCN và đạo đức cách mạng, tạo nguồn phát triển Đảng, làm tăng sức chiến đấu và lãnh đạo. Số lượng đảng viên của đảng bộ ngày càng tăng về số lượng, chất lượng được nâng lên. Trước yêu cầu mới của cách mạng, đòi hỏi phải quan tâm giáo dục tư tưởng, học tập lý luận, đảng bộ đã tiến hành chỉnh huấn, nâng cao ý thức làm chủ, nhất quán quan điểm tất cả phục vụ sản xuất, tạo khí thế thi đua sôi nổi, toàn diện.
            Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, đã tạo sức mạnh về vật chất, tinh thần, tạo tiền đề cho Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước, bảo vệ miền Bắc XHCN, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
       II. VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, ĐÁNH BẠI ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ  (1964 - 1975)
       1. Đấu tranh bảo vệ quê hương, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi
       Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng và Nhà nước đang giành được những thành tựu nhất định. Bất ngờ ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay và tàu chiến ném bon bắn phá một số mục tiêu quan trọng ở Vinh, Cửa Hội Nghệ An và nhiều nơi khác, mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Quỳnh Lưu trở thành trọng điểm luôn luôn bị máy bay, tàu chiến đế quốc Mỹ đánh phá.
       Ngày 07/02/1965, đế quốc Mỹ tăng cường leo thang đánh phá miền Bắc. Hầu hết các xã, thị trấn của huyện Quỳnh Lưu đều bị địch ném bom, trọng điểm là ga Hoàng Mai, Cầu Giát, các xã ven đường Quốc lộ 1A, ven biển. Đặc biệt ngày 17/02/1965, địch cho ba tàu chiến thuộc Hạm đội 7, một giờ liền, liên tục bắn vào xã Quỳnh Lập. Ngày 12/6/1965, chúng cho nhiều tốp máy bay phản lực các loại đánh hủy diệt Khu điều trị phong Trung ương đóng tại Quỳnh Lập trong nhiều giờ, giết hại 200 người, trong đó có cán bộ, bệnh nhân và công nhân viên và 100 người bị thương. Gần 2.000 bệnh nhân và cán bộ y tế phải lánh nạn vào các hang động, di dời lên rừng núi...
       Trước tình hình đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XI nhận định: Trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân, cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn của cả nước, nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc lúc này là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đồng thời quyết định: kịp thời chuyển hướng xây dựng phát triển kinh tế, tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới. Khẩu hiệu hành động là:
          "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
 Ngày 21-1-1965, Tỉnh Ủy Nghệ An thông qua đề án: “Tình hình, nhiệm vụ chuyển hướng xây dựng kinh tế 2 năm 1965-1967”. Đề án chỉ rõ một số tình huống có thể xẩy ra:
1. Kế hoạch có thể bị xáo trộn, kinh tế bị hỗn loạn bước đầu, đời sống nhân dân, nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không sớm chuẩn bị hậu phương.
2. Do đặc điểm địa hình rộng và phức tạp, nên Nghệ An có thể  bị địch chia cắt ra thành nhiều vùng, cô lập với các tỉnh. Trong điều kiện bị chia cắt và cô lập, việc xây dựng và phát triển kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là sản xuất và bảo đảm đời sống nhân dân.
3. Nghệ An vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương, phải là nơi cung cấp trực tiếp nhân lực, vật lực cho quốc phòng, nếu không chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp thì không thể đáp ứng được nhu cầu cách mạng”([1]).
Quán triệt Nghị quyết của Tỉnh và Trung ương, nhiệm vụ được đặt ra trong lúc này Huyện ủy Quỳnh Lưu đề ra các nhiệm vụ cụ thể:
1. Tổ chức chiến đấu cũng như phòng tránh máy bay địch ném bom, bắn phá nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời bảo vệ sản xuất.
2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất là các công trình thủy lợi, đồng thời đẩy mạnh thâm canh.
3. Xúc tiến việc điều chỉnh sức lao động giữa các vùng trong huyện, ra sức nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp ([2]).
       Khâu then chốt đều hướng tới xây dựng hậu phương vững mạnh, bảo đảm cuộc sống cho nhân dân, vừa chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho yêu cầu lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời sẵn sàng chi viện sức người, sức của ngày càng nhiều cho tiền tuyến lớn miền Nam.
       Quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của trên, Đảng bộ đã căn cứ vào thực tế của địa phương, thống nhất ý chí hành động, đề ra phương hướng nhiệm vụ cụ thể, trong đó tập trung hướng sự lãnh đạo, chỉ đạo sang thời chiến, khẩn trương triển khai công tác huấn luyện, thành lập trung đội chiến đấu, tăng cường việc bố phòng, canh gác, sẵn sàng đánh trả máy bay địch. Đồng thời đẩy mạnh sản xuất, đưa tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào nông nghiệp, quan tâm công tác làm thủy lợi, vận động nhân dân tích cực tham gia các công trình của huyện, tỉnh phát động, làm tốt nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
       Đặc biệt các kỳ Đại hội của Đảng bộ, đã đề ra các chủ trương, nhiệm vụ mang tính lâu dài, xuyên suốt phù hợp với từng thời điểm trong đó tập trung vào những nhiệm vụ:
       1. Chủ động phòng tránh địch và giành thắng lợi.
       2. Nâng cao tinh thần cảnh giác toàn dân, toàn diện, chống mọi hình thức xâm nhập trên biển, trên không của đế quốc Mỹ vào địa bàn xã.
       3. Đẩy mạnh lao động sản xuất, thâm canh tăng năng suất, ổn định đời sống, chi viện đắc lực, sức người, sức của cho chiến trường.
       4. Giữ vững mạch máu giao thông, đảm bảo công tác vận chuyển hàng hóa từ Bắc vào Nam.
       Bom đạn của đế quốc Mỹ gây ra nhiều tội ác trên mảnh đất Quỳnh Xuân. Tính từ ngày 05/8/1964 - 31/12/1972, đế quốc Mỹ đã đánh vào địa bàn 342 trận lớn nhỏ, có ngày địch đánh phá 8 trận liên tục vào 4 cao điểm và hai hang động chứa hàng quân sự. Đặc biệt ngày 10/7/1968, địch đã ném bom, tàn phá khốc liệt vào các đội ( hiện nay là các khối 3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,14) làm 9 người dân bị thiệt mạng, 15 người bị thương, 20 nóc nhà bị đổ nát, phá hủy nhiều diện tích hoa màu, nhiều trâu bò, lợn và gia cầm bị chết.
       Từ tháng 7/1968, đế quốc Mỹ dùng máy bay ném bom xuống địa bàn nhiều bom nổ chậm, bom từ trường và nhiều loại bom đạn khác nhằm gây thiệt hại lâu dài. Trung đội rà phá bom nổ chậm do đồng chí Nguyễn Đình Văn phụ trách không sợ hy sinh gian khổ đã rà phá được 24 quả bom từ trường, trên tuyến đường Quốc lộ 1A, giải phóng cho trên 300 chiếc xe vừa chở quân, vừa chở hàng quân sự vào chiến trường được thông suốt, trong trận này đồng chí Nguyễn Đình Văn đã hi sinh lúc tháo gỡ quả bom thứ 24.
        Đế quốc Mỹ đã đánh vào địa bàn 62 trận, trong đó có 24 trận ban ngày và 38 trận vào ban đêm với 72 quả bom phá, 320 quả bom sát thương, hơn 9000 quả bom bi, 26 quả bom từ trường và trên 560 quả đạn đại bác các loại v.v(1)…Bom đạn của kẻ thù đã gây nên bao tang tóc đau thương cho nhân dân Quỳnh Xuân. Năm mươi người dân và chiến sỹ bộ đội, dân quân đã ngả xuống trên mảnh đất Quỳnh Xuân vì bom đạn của đế quôc Mỹ. Có gia đình bị giết cả mẹ và con, nhiều người khác bị tàn phế, thương tật, hàng chục ngôi nhà của dân bị thiêu hủy. Đặc biệt năm 1972, chỉ trong một thời gian ngắn địch đã đánh vào địa bàn. Ngày 5/5/1972, địch đánh vào trận địa Cồn Thành, một chiến sĩ hy sinh là Khương Minh Sắn quê ở thôn Căng thượng, xã Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, được địa phương mai tánh gần nghĩa trang huyện, sau đó báo tin cho gia đình chuyển hài cốt về quê. Tháng 6/1972, địch đánh vào trận địa ở Mồ Giấy làm 7 chiến sĩ bị thương. Ngày 12/ 7/1972, địch đánh vào Trạm chế biến nhựa thông của Lâm trường Quỳnh Lưu làm 3 người chêt: Cao Xuân Tri, Hồ Khắc Sinh, Lê Tiến Thục. Ngày 16/8/1972, chúng đánh vào cồn Hộ Bành (nay thuộc xã Quỳnh Tân) lúc nhân dân được xã huy động đi phát băng để trồng sắn, làm gia đình bà Nguyễn Thị Liệu chết 4 người. Ngoài ra còn có một số người đi làm bị chết: Lê Thị Minh, Nguyễn Thị Sự, Nguyễn Thị Thư. Ngày 12/9/1972, chúng đánh vào trận đia pháo cao xạ Nguyễn Viết Xuân đóng tại cồn Đồng Càn làm 9 chiến sĩ hy binh, 19 chiến sĩ bị thương, số chiến sĩ hy sinh được địa phương phối hợp với đơn vị mai táng chu đáo gần nghĩa trang của huyện, số bị thương được hàng chục dân quân chuyển tải vào trạm xá xã, chiều tối chuyển xuống bệnh viện huyện đóng tại Quỳnh Yên. Ngày 26/9/1972, địch đánh vào đội 6 (nay là khối 8) làm chết 5 người.
       Căm thù giặc sâu sắc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân đã đoàn kết, bám trụ vững chắc, vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu, bảo đảm: "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", chi viện đầy đủ cho miền Nam. Để tập trung chỉ đạo sản xuất, và chiến đấu, toàn Đảng, toàn dân luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, chống trả lại kẻ thù bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, đã tập trung xây dựng lực lượng, trong đó:
       Lực lượng dân quân du kích được tổ chức thành 4 đại đội với tổng số 350 đồng chí. Một trung đội trực chiến bằng súng bộ binh có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị pháo cao xạ bắn máy bay.
       Một đại đội cơ động mạnh gồm 70 đồng chí, có nhiệm vụ thường xuyên đảm bảo hàn gắn vết thương trên các trục đường giao thông.
       Hai đại đội gồm 160 đồng chí, có nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa quân sự từ xe tàu vào kho và từ kho xuống các thuyền đi các hướng.
       Một trung đội biên chế 30 đồng chí, có nhiệm vụ đào bới, tải thương.
       20 tổ trinh sát, đóng chốt ở các cao điểm, có nhiệm vụ báo động cho nhân dân khi có máy bay vào oanh tạc địa bàn và những xã phụ cận.
       13 trung đội, được bố trí theo đơn vị đội sản xuất, lực lượng này vừa đảm nhận công tác chiến đấu, phục vụ chiến đấu, vừa là lực lượng chủ lực trong sản xuất và bảo đảm giao thông, thủy lợi.
       Lực lượng dân quân, luôn nằm trong tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu, cứu hàng hóa, phối hợp cùng tiểu đoàn 12 Nguyễn Viết Xuân, và tiểu đoàn 214 pháo cao xạ đóng trên địa bàn bắn rơi một máy bay F105 và một máy bay F4H. Ngày 10/5/1972, địch dùng 16 chiếc máy bay, đánh 3 trận trong ngày vào kho hàng quân sự, 2 đại đội bốc xếp được điều động ứng cứu, sơ tán hàng ra khỏi khu vực đánh phá, đồng thời huy động nguyên vật liệu dựng các kho tạm để  cất dấu số hàng đã được sơ tán an toàn.
       Trên mặt trận phục vụ chiến đấu, quân và dân đã tham gia hàng vạn ngày công vào việc đảm bảo giao thông và vận chuyển hàng hóa ra phía trước. Do nằm trên các tuyến giao thông thủy, bộ huyết mạch cho việc tham gia bảo đảm giao thông thông suốt trong mọi tình huống là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quân và dân trong những năm chống Mỹ cứu nước. Quân và dân Quỳnh Xuân đã giành 3 triệu ngày công đào đắp 2,6 triệu m3 đất đá, vận chuyển, bốc xếp trên 6 triệu tấn hàng hóa các loại, xây dựng 12 lô cốt bằng bê tông phòng thủ trên biển, đóng góp hàng chục triệu cây tre, 5.000 cọc bạch đàn rào 5km đường biển, đào công sự; làm 1.000 bàn chông các loại, đắp 20 trận địa pháo, đào đắp 700 hầm chữ A, 1.400 hố cá nhân, 30 km giao thông hào xung quanh xã. Đồng thời đóng góp nhiều ngày công vào việc mở đường kéo pháo sang Quỳnh Liên v.v.. Trong công việc bảo đảm giao thông, ngoài dân quân là lực lượng nòng cốt còn có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân. Cứ sau mỗi trận đánh phá của máy bay đế quốc Mỹ, mọi người đã kịp lên mặt đường san lấp hố bom, cứu xe, cứu hàng. Do vị trí giao thông thuận lợi, Quỳnh Xuân được chọn làm trạm trung chuyển hàng hóa ở phía Bắc Quỳnh Lưu,  khu vực từ dốc Giữa dọc tuyến đường số 1 (nay là khối 16), núi Mù U, trường cấp 1, Cửa Đền và toàn bộ tuyến dân cư từ đội 1 - 6 (nay là khối 8) đều là nơi đặt các kho lương thực, thực phẩm, vũ khí và các nhu yếu phẩm phục vụ chiến trường. Hàng trăm ngôi nhà của dân trong khu vực đó đã được huy động vào việc cất dấu.
       Xã thành lập một đội xe thồ 35 người, đảm nhiệm việc vận chuyển hàng hóa từ ga Hoàng Mai đi các cung trạm để vận chuyển hàng. Trong quá trình hoạt động, đội đã vận chuyển được 80 tấn hàng hóa. Nhân dân với đôi vai trần, chân đất đã chuyển hàng ngàn tấn lương thực, đạn dược từ Quỳnh Xuân về kho Diễn Hùng (Diễn Châu) và nhiều địa điểm khác. Pháo sáng, đạn bom, đường xá, vác nặng nhưng vẫn không làm chùn bước chân của lực lượng vận tải.
       Với mưu đồ đưa miền Bắc xã hội chủ nghĩa “trở về thời kỳ đồ đá”, ngăn chặn sự chi viện từ Bắc và Nam. Đế quốc Mỹ đã không từ bỏ một thủ đoạn hủy diệt nào mà chúng không áp dụng. Chúng sử dụng tất cả các loại máy bay hiện đại nhất lúc bấy giờ như: F105 (thần sấm), E4H (con ma), B52 (pháo đài bay)…trừ bom nguyên tử  chúng chưa kịp dùng ở Việt Nam. Những vũ khí giết người tối tân như: bom lade, bom từ trường…. Chúng không chỉ đánh ban ngày mà đánh phá vào cả ban đêm, không kể thời tiết tốt hay xấu, nắng hay mưa… Chúng không trừ một mục tiêu nào từ cầu lớn nhỏ trên Quốc lộ 1A đến cái cống nhỏ trong đường làng; từ kho đựng hàng đến nhà ở của dân; từ mục tiêu quân sự đến nhà trường, chợ búa, bệnh viện… tất cả đều trở thành mục tiêu đánh phá của máy bay và tàu chiến Mỹ. Đó là những thử thách lớn đối với nhân dân miền Bắc nói chung, nhân dân Quỳnh Xuân nói riêng.
       Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ mình, dọc đường làng đều được nhân dân làm các hầm tự tạo, hầm chữ A, chữ U, hầm tròn, hào giao thông... Trường học cơ quan đều có hầm bảo vệ. Có hầm làm việc cho ban lãnh đạo, thuận lợi cho công tác chỉ huy, chỉ đạo, có hầm sơ cứu người bị thương. Trường học có hầm cho thầy, trò trú ẩn, có giao thông hào cho các em sơ tán. Phong trào toàn dân làm hầm quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ diễn ra sôi nổi.
       Bên cạnh công tác phòng không trực chiến, thực hiện khẩu hiệu "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, xã đã động viên thanh niên lên đường nhập ngũ. Hàng năm thực hiện tốt các đợt khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Số thanh niên trai tráng cả nam và nữ từ 18 tuổi đến 35 tuổi đều được ghi tên. Từng đợt giao quân đều vượt chỉ tiêu. Có nhiều thanh niên chưa đến tuổi đã xung phong đi bộ đội. Nhiều gia đình có hai, ba người lên đường nhập ngũ. Tính từ năm 1964 - 1975, toàn xã có 1.500 thanh niên đã hăng hái gia nhập quân đội, 45 thanh niên gia nhập vào tổng đội thanh niên xung phong, 2.900 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến. Nhiều con em Quỳnh Xuân đã xuất sắc lập công, nhiều người đã trưởng thành trong chiến đấu trở thành những cán bộ trung, cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Đình Khoa, đại tá được Nhà nước phong tặng Anh hùng LLVT nhân dân, đồng chí Nguyễn Công Tá (Đại tá quân y) được công nhận thầy thuốc ưu tú. Trong công tác khám tuyển nghĩa vụ quân sự, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ, cũng gặp nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng tới nhiều hoạt động của xã nhà. Trước tình hình đó, Huyện ủy Quỳnh Lưu đã quyết định lấy Quỳnh Xuân làm điểm chỉ đạo công tác tuyển quân. Đồng chí Nguyễn Hữu Đợi, Bí thư Huyện ủy đã giành nhiều thời gian cùng Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể củng cố  tổ chức Đảng, chính quyền, đoàm thể và vực dậy phong trào quần chúng.
         Trong đợt sinh hoạt chính trị chào mừng ngày thành lập Đảng 3/2/1971, Đảng bộ đã giành trọn 3 ngày, đêm để họp toàn Đảng, toàn dân bàn công tác xây dựng Đảng và phát động phong trào quần chúng. Hang Lèn Hà (gần chùa Bát Nhã) những ngày này không chỉ là chỗ ẩn nấp máy bay, mà còn là nơi diễn ra các cuộc Hội nghị của Đảng bộ và các đoàn thể quần chúng để bàn bạc việc làng, việc nước, việc đánh máy bay, tàu chiến Mỹ, việc giao nạp quân lương. Qua đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, mỗi cán bộ, đảng viên càng nhận thức rõ hơn những yếu kém của mình trong việc vận động nhân dân tham gia sản xuất và phục vụ chiến đấu. Đảng bộ kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức Đảng một số đảng viên yếu kém, không gương mẫu trong việc động viên con em mình thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sau đợt sinh hoạt chính trị, Quỳnh Xuân đã tạo được khí thế đi lên. Công tác tuyển quân không còn gặp những trở ngại như trước, một số người là con trai độc nhất như các anh: Văn Đức Quýnh, Vũ Văn Liên v.v… vẫn xung phong đi bộ đội.
       Đợt ra quân đầu xuân 1972, đã có 84 thanh niên đi bộ đội và 102 nam, nữ gia nhập thanh niên xung phong. Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể tổ chức lễ giao quân trọng thể, trang nghiêm như một ngày hội lớn. Đồng chí Bí thư Huyện ủy và Chủ tịch Ủy ban 42 xã trong toàn huyện Quỳnh Lưu cùng nhiều phóng viên báo chí, đài tỉnh, huyện đã về dự lễ ra quân và tiễn quân thanh niên lên đường đánh Mỹ. Tại buổi lễ long trọng này, Đảng bộ đã tổ chức kết nạp Đảng cho 5 đoàn viên thanh niên ưu tú: Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Thị Hiển,Vũ Minh Miên, Lê Thị Thường, Nguyễn Đình Khang. Việc làm đó đã cổ vũ tinh thần cho người ra đi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như người ở lại tiếp tục xây dựng quê hương.
       Sau lễ mít tinh, hai đại đội bộ đội và thanh niên xung phong hàng ngũ chỉnh tề vui vẻ chia tay với đồng bào, đồng chí và người thân vui vẻ lên đường làm nhiệm vụ. Đảng ủy đã cử đồng chí Nguyễn Đình Quý, Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp làm đại đội trưởng và 2 thường vụ đoàn thanh niên làm bộ khung của đại đội thanh niên xung phong.
       2. Phát triển kinh tế - văn hóa, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tuyền truyến
       Thực hiện phương châm “vừa sản xuất, vừa chiến đấu” với khẩu hiệu "tay cày, tay súng", "mỗi người làm việc bằng hai, tất cả vì miền Nam ruột thịt". Đảng bộ và nhân dân đã tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất, chăn nuôi, giải quyết tốt vấn đề lương thực, thực phẩm.
       Trong những năm chiến tranh phá hoại, bom đạn địch đánh phá ác liệt, nhiều diện tích canh tác, hoa màu bị cày xới. Đảng bộ tập trung chỉ đạo nhân dân san lấp hố bom, cải tạo đồng ruộng, kết hợp khai hoang mở rộng diện tích. Cùng với sức lao động của bà con xã viên hợp tác xã nông nghiệp lên khai hoang trồng sắn, hoa màu dọc chân núi Hộ Bành. Đường liên xã, bờ vùng, bờ thửa, được cải tạo, kết hợp giữa kiến thiết ruộng đồng, với việc phát triển giao thông nông thôn, chuyển các cánh đồng từ sản xuất một vụ lên hai vụ. Kết quả gần 200 ha được cải tạo, đưa vào sản xuất năng suất đạt 4,5 tấn/ha. Hàng năm, xã giao nộp vượt chỉ tiêu 10-12%. Phong trào làm thủy lợi được đẩy mạnh. Xã đã tích cực tham gia các công trình của huyện.
       Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được mở rộng và phát triển, đảng bộ đã vận động nhân dân khai phá và tận dụng diện tích các bãi phù sa để trồng cói và xây dựng các cơ sở chế biến cói, thu nhập của các hợp tác xã và các gia đình xã viên tăng lên. Bình quân thu nhập của một hợp tác xã, năm 1966 so với năm 1964 tăng 60%, một lao động nông nghiệp tăng 55%.
Ngày 27/1/1973,  Hiệp định Pa-ri được ký kết, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom miền Bắc. Đảng bộ và nhân dân bắt tay ngay vào việc khắc phục hậu quả đánh phá của bom, đạn Mỹ, phong trào khai hoang, mở rộng diện tích canh tác sôi nổi trong các HTX. Những hố bom, những đám ruộng địch đánh phá đều được khôi phục, san lấp để tiếp tục cày cấy, khơi vét kênh mương, đào đắp bờ vùng, bờ thửa... Đời sống kinh tế của nhân dân được ổn định, xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, nhiều cán bộ HTX trở thành chiến sỹ thi đua nông nghiệp trong phong trào cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất cây trồng, phát triển ngành nghề. HTX đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, ngành nghề như thành lập các trại chăn nuôi trâu, bò, dê, lợn tập trung; các tổ khai thác đá, lò vôi, lò ngói, xây dựng nhà cửa... Đây cũng là thời kỳ huyện mở công trường thủy nông Vực Mấu, cải tạo đồng muối Quỳnh Thuận, xây dựng công trình tình nghĩa nuôi dưỡng thương bệnh binh ở Quỳnh Châu, nghĩa trang liệt sỹ trên địa bàn, xây dựng bệnh viện Quỳnh Lưu; đào đắp và cải tạo hệ thống thủy lợi ở Quỳnh Giang, làm đập ngăn mặn Quỳnh Lập... Nhân dân trong xã chủ yếu là thanh niên đã tham gia hàng vạn ngày công và cung cấp một số vật tư, nguyên vật liệu để hoàn thành các công trình của huyện, thể hiện quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
           Hợp tác xã mua bán phát huy tốt vai trò mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán huyện để phục vụ nhân dân trong thời chiến, làm tốt việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, vừa cung cấp đầy đủ cho tiền tuyến và nhu cầu của Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất. HTX tiến hành ký hợp đồng với bên có nhu cầu, rồi khoán cho các đội sản xuất, thu mua sản phẩm. HTX ủy thác thu mua lợn nghĩa vụ cho Nhà nước, hàng năm đều vượt mức, tổ chức mổ lợn bán cho cán bộ, cho nhân dân, cung cấp cho các cửa hàng ăn uống của huyện theo kế hoạch. Qua các hoạt động đó, HTX mua bán đã góp phần đấu tranh với tư thương, quản lý thị trường, bình ổn giá cả.
       3. Công tác giáo dục - y tế - xã hội được đảng bộ chú trọng quan tâm.
          Trường cấp II, được thành lập vào năm học 1965-1966 tại khối 8 ngày nay. Lúc mới thành lập trường chỉ có 1 lớp 5, với khoảng 50 học sinh (chủ yếu là học sinh Quỳnh Xuân và Quỳnh Kim nay thuộc phường Mai Hùng) do thầy giáo Nguyễn Ngọc Túc phường Mai Hùng làm Hiệu trưởng.
          Năm 1967, trường cấp II Quỳnh Xuân sát nhập với trường cấp II Quỳnh Văn lấy tên là Trường cấp II Văn - Xuân do thầy Lê Văn Khánh (Thanh Chương) làm Hiệu trưởng.
        Trong những năm chiến tranh, Trường cấp 1 – 2, bị địch ném bom phải di chuyển đi nhiều địa điểm khác nhau. Với tinh thần “Tìm nơi mà đặt lớp” “tìm trò mà dạy”, việc học của con em Quỳnh Xuân không bị ngừng trệ mà ngày càng phát triển. Học sinh được sơ tán xa các khu vực trọng điểm quân sự, để các lớp học được đảm bảo an toàn, tỷ lệ học sinh đến trường đạt 100%, các em đều được trang bị mũ rơm, túi thuốc cá nhân. Dưới “Lớp học nhà hầm”, một thế hệ học sinh  đã trưởng thành. Có nhiều người trong số họ đã cầm súng lên đường đi chiến đấu và anh dũng hi sinh vì nền độc lập của dân tộc. Một số có điều kiện theo học tiếp ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp đã trở thành sỹ quan quân đội, kỹ sư, bác sỹ, cán bộ kỹ thuật trung, cao cấp đem trí tuệ và tài năng của mình phục vụ cho đất nước, quê hương.
       Có được kết quả đó, thầy và trò Quỳnh Xuân trong những năm tháng của cuộc chiến tranh ác liệt đã vượt biết bao khó khăn, gian khổ, các trò phải “đội bom đi học”; các thầy giáo, cô giáo phải dạy 2-3 ca, phải lặn lội từ khối này sang khối khác để dạy. Cha mẹ, anh, chị học sinh cùng các đồng chí lãnh đạo của xã giành hàng ngàn ngày công và tiền của để dựng trường, lớp cho con em học tập.
       Công tác y tế có nhiều tiến bộ.
          Năm 1964, Cán bộ hoạt động tại Trạm y tế gồm các ông, bà:
          1. Nguyễn Đình Linh - Trạm trưởng.
          2. Nguyễn Thị Quý - Hộ sinh.
          3. Nguyễn Cảnh Điện - Phụ trách đông y.
          4. Nguyễn Đình Quý - công tác điều trị và đông y.
          Năm 1968, ông Nguyễn Đình Linh đi phục vụ đội dân quân xe thồ, ông Nguyễn Đình Chính, Trạm trưởng, năm 1968, bà Hồ Thị Ngân (Quỳnh Bảng) được huyện điều về làm Trạm trưởng, năm 1970, ông Lê Tiến Nghiệm, làm Trạm trưởng.
       Trong hoàn cảnh cơ sở, vật chất của trạm y tế còn nghèo nàn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp thì những nhiệm vụ mới đặt ra là hết sức nặng nề. Cán bộ y tế đã phối hợp với xã đội dân quân, mở các lớp huấn luyện về cách cứu chữa các nạn nhân khi bị sập hầm, cách buộc garô những vết thương thông thường. Nhờ làm tốt công tác sơ cứu ban đầu, trạm y tế và đội ngũ anh, chị em cứu thương đã góp phần giảm bớt được những thiệt hại cho nhân dân.
       Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt, Trạm y tế phải chuyển dời nhiều lần, có lúc phải làm nhà hầm tại Cồn Điệp (khối 8 ngày nay) để điều trị bệnh nhân. Nhà hầm dựng xong cũng là lúc máy bay thả bom xuống vùng đông Cẩm làm 5 người chết và nhiều người khác bị thương. Nhờ có nhà hầm nên những người bị thương được cứu chữa kịp thời. Để giúp các bà mẹ khi sinh đẻ, các chị làm công tác hộ sinh đã về từng nhà để thăm, khám thai và đỡ đẻ. Nhờ đó cũng hạn chế được những khó khăn cho các bà mẹ và trẻ em. Công tác vệ sinh phòng dịch được chú trọng sau chiến tranh, nhất là đẩy mạnh phong trào làm ba công trình: hố xí hai ngăn, giếng xây, nhà tắm nên trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt đã không để xẩy ra các dịch bệnh lớn. Trạm xây dựng vườn cây dược liệu, tổ chức vận động nhân dân trồng những cây thuốc thông thường trong gia đình để tự chữa bệnh.
          Với thành tích đó, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nhiều năm liên tục, Ngành y tế được xếp loại đơn vị xuất sắc và đơn vị điểm của ngành y tế của huyện và tỉnh.
          Công tác văn hoá - thông tin được quan tâm đúng mức, góp phần tích cực trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thực hiện khẩu hiệu "Tiếng hát, át tiếng bom", phong trào ca hát, sinh hoạt văn nghệ vẫn duy trì đều đặn. Xã có đội văn nghệ và đội thông tin lưu động được thành lập từ sau hoà bình lập lại, tổ chức biểu diễn tuồng và nhiều vở kịch nói, ca múa, hát phục vụ các ngày lễ, tết nhất là phục vụ trên các công trường thỦy lợi. Ban thông tin xã mua loa phát thanh cho các thôn để phát tin, đọc báo trên các chòi phát thanh. Ở các thôn, xóm đều có bảng tin, khẩu hiệu, tranh cổ động, pa nô, áp pích…
          Chiến tranh tàn khốc, ác liệt, nhưng với tinh thần tương thân tương ái, đảng bộ và nhân dân đã giúp công của hỗ trợ những gia đình bị thiệt hại do bom đạn Mỹ gây ra, đồng thời chắt chiu từng củ khoai, củ sắn, bát nước chè xanh phục vụ cho các đơn vị trực chiến hàng ngày, theo sự phân công. Sau mỗi trận đánh các cháu thiếu nhi và nhân dân đã kịp thời chuyển lá ngụy trang vào các trận địa,  ngụy trang che mắt quân thù.
          4. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, xã hội
           Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện Ủy, Đảng bộ xã đã kịp thời thích ứng với thời chiến, hoạt động khẩn trương, tổ chức chặt chẽ, chú trọng công tác tư tưởng và kỷ luật nội bộ, cán bộ nhìn chung gương mẫu, động viên được phong trào quần chúng. Đảng bộ bám sát tình hình địa phương, kiện toàn tổ chức, nhằm tăng cường đoàn kết, động viên mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân tham gia chiến đấu, sản xuất, tích cực chi viện cho tiền tuyến. Đảng bộ ngày càng vững mạnh. Đảng ủy đã xác định đúng vị trí quân sự của xã trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, đề ra những chủ trương, biện pháp thích hợp, lãnh đạo thực hiện cụ thể và toàn diện. Đồng thời quan tâm công tác vận động, động viên, tổ chức nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến. Thông qua phong trào quần chúng do đảng bộ tổ chức và lãnh đạo, qua các cuộc đấu tranh thử thách, đã bồi dưỡng nhân tố tích cực để kết nạp vào Đoàn, kết nạp và Đảng. Trong chiến tranh, đảng bộ kết nạp được nhiều đảng viên, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng. Chính quyền cũng được kiện toàn phù hợp với thời chiến, tổ chức gọn nhẹ, đáp ứng tình hình cụ thể cấp thiết của chiến tranh. Chính quyền tập trung vào việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến, chi viện cho miền Nam, đóng thuế nông nghiệp đầy đủ, hàng năm hoàn thành và hoàn thành vược mức nghĩa vụ đóng góp lương thực, thực phẩm. Mặt trận Tổ quốc chú trọng đoàn kết lương giáo, có vai trò  tích cực trong việc sửa sai cải cách ruộng đất, chống địch dụ dỗ, cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, làm tốt việc vận động, tổ chức nhân dân tham gia các phong trào yêu nước. Vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp đầy đủ, đi dân công vận chuyển hàng hoá, bảo vệ  kho tàng, bến bãi phục vụ chiến trường.
           Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, phong trào quần chúng phát triển với những khẩu hiệu thi đua thiết thực. Thanh niên với khẩu hiệu "ba sẵn sàng":
 Sẵn sàng chiến đấu.
Sẵn sàng khắc phục khó khăn
Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc gọi.
 Trong phong trào tòng quân, có đồng chí chích tay lấy máu, viết huyết tâm thư mong được lên đường chiến đấu. Nhiều thanh niên nhẹ cân đã bỏ đá vào túi cho đủ cân lúc khám tuyển. Đội xung kích của Đoàn thanh niên lao động đã nhiều lần hoàn thành nhiệm vụ tải thương, vận chuyển hàng hoá và thông xe trước thời hạn dưới làn bom đạn. Đoàn tổ chức “cánh đồng thanh niên”, tổ chức thanh niên làm nòng cốt trong các đội kỹ thuật của HTX.
Xã đội đã làm tốt việc tuyển quân. Trước khi nhập ngũ, số thanh niên dự tuyển đều được xã đội tập trung bồi dưỡng sức khoẻ, học tập chính trị, động viên tinh thần. HTX và các đoàn thể tài trợ tiền, gaọ, mua thêm thực phẩm để nuôi quân. Nhờ vậy, trước khi lên đường, thanh niên đều lên cân, đủ sức khoẻ để nhập ngũ.
          Phụ nữ với khẩu hiệu "ba đảm đang":
Đảm đang trong sản xuất.
Đảm đang trong công việc gia đình.
 Đảm đang trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.  
          Trong thành tích chung của Đảng bộ và nhân dân có sự đóng góp hết sức to lớn của những người mẹ, người chị. Chiến tranh xảy ra, biết bao chị. em đã tự nguyện đảm nhận việc đồng áng, phụng dưỡng cha, mẹ già, chăm sóc con thơ để chồng, con yên tâm lên đường đi chiến đấu. Cũng không ít các mẹ, các chị đã âm thầm chịu đựng những mất mát, đau thương bởi chiến tranh như: Lê Thị Túc (mẹ của hai liệt sỹ), bà Hồ Thị Tùy ( mẹ của một liệt sỹ và một thương binh hạng nặng), một số chị em khác đã vui vẻ nhường nhà ở của mình cho Chính phủ làm kho cất giấu hàng hóa. Có lúc lương thực, thực phẩm của bộ đội để đầy nhà dân mà không hề bị hư hao, mất mát;  lúc máy bay đến đánh phá, các chị lo cứu hàng của Nhà nước còn nhà cửa của gia đình mình bị cháy trụi vẫn không hề kêu ca, phàn nàn. Cảm động biết bao sự hi sinh của những người phụ nữ quê hương từ những năm đầu cách mạng tháng Tám đến nay như bà: Hồ Thị Chưu, Vũ Thị Cới, Trần Thị Xang, Hồ Thị Nhuệ v.v… Các bà, các chị đã góp phần cùng Đảng và nhân dân vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để sản xuất và chiến đấu, thực hiện tốt trách nhiệm của hậu phương đối với công cuộc chống Mỹ cứu nước.
          Nhìn suốt chặng đường những năm chiến tranh, đặc biệt trong hai lần phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, Quỳnh Xuân trải qua bao thử thách, chịu nhiều tổn thất nặng nề về người và của. Đã huy động 1.500 thanh niên lên đường nhập ngũ, 450 người gia nhập tổng đội Thanh niên xung phong, 290 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến. Trong đó có 67 người con vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường, 59 người con để lại một phần cơ thể. Tại quê hương, bom đạn Mỹ đã cướp đi 27 sinh mạng, 30 người bị thương, 200 nóc nhà bị phá hủy hoàn toàn, 150 con trân bò bị chết, nhiều tài sản khác bị phá hoại, 50% diện tích đất canh tác bị bom đạn đào xới nhiều lần. "Lửa thử vàng, gian nan thử sức", Đảng bộ và nhân dân nêu cao quyết tâm, phát huy cao độ sức mạnh tiềm tàng trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi xóm, để bảo vệ và xây dựng quê hương. Cùng với việc giữ vững kinh tế trong hoàn cảnh chiến tranh. Xã còn hoàn thành tốt nhiệm vụ vận chuyển, bảo vệ giao thông thông suốt, làm tốt vai trò nhiệm vụ của hậu phương với tiền truyến; huy động được 4.500 tấn lương thực, 1.600 tấn thịt, 400 tấn lạc, vừng, 6.500 tấn rau quả, 15 triệu đồng tiền mặt chi viện cho chiến trường và nuôi lực lượng dân quân trực chiến, bồi dưỡng cho thanh niên bổ sung quân đội, huy động 14 nhà kho của các HTX để cất hàng quân sự. Kết quả đó gắn liền với mồ hôi, nước mắt, xương máu của những người dân ngày đêm bám ruộng đồng để sản xuất, động viên con em lên đường đánh giặc, gắn liền với vai trò chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện của Đảng bộ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể. Ban quản trí hợp tác xã nông nghiệp, những người trực tiếp quản lý điều hành, đôn đốc cơ sở sản xuất, xây dựng xóm làng.
       Trong chiến tranh, vừa làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhân dân Quỳnh Xuân đã giành được nhiều thành tích lớn, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương chiến công hạng Ba (năm 1968), Huân chương chiến công hạng Nhì (năm 1972), 8.569 Huân, Huy chương các loại, 40 cờ thưởng luân lưu, 92 bằng khen cấp tỉnh, 80 Giấy khen các loại, 1 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 1 anh hùng lực lượng vũ trang, 1 thầy thuốc ưu tú. Đảng bộ trên 23 năm liên tục đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, được huyện, tỉnh tặng cờ luân lưu. Phần thưởng cao quí nhất được Nhà nước phong tặng: Danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ tang nhân dân”.
       Những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân giành được là rất đỗi tự hào, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
                                               
 
CHƯƠNG V
QUỲNH  XUÂN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI,  XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 2010)
          Ngày 30/4/1975, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, cả nước thống nhất, đi lên xây dựng CNXH.
          Ngày 25/4/1976, cả nước tiến hành bầu cử Quốc hội thống nhất. Kỳ họp Quốc hội khóa VI lần thứ nhất khai mạc ngày 02/7/1976, quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
          Tháng 12/1976, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã tổng kết kinh nghiệm phong phú của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời đề ra đường lối chung cho cách mạng cả nước trong thời kỳ mới là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
          Hòa bình lập lại, tháng 5/1975, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu tiến hành Đại hội lần thứ XVI tại thị trấn Cầu Giát. Đại hội đã tập trung thảo luận và quyết định những nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Theo sự chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy, Quỳnh Lưu là một trong năm huyện của cả nước được Trung ương Đảng chọn làm thí điểm xây dựng cấp huyện thành một đơn vị nông - công nghiệp với các mục tiêu là:
Tổ chức lại sản xuất, lấy nông nghiệp làm cơ sở, lấy công nghiệp hoá nông nghiệp làm trung tâm.
Chủ trương chung là đưa cơ giới hoá vào sản xuất để rút bớt lao động nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp, xây dựng các cụm kinh tế - kỹ thuật, từng bước thực hiện thành thị hoá nông thôn. Đây là một công việc rất mới mẻ, để thực hiện được đòi hỏi phải có nhiều yếu tố về tinh thần, lực lượng, kể cả yếu tố  khách quan, chủ quan, đặc biệt là về ý chí và trí tuệ…
       Trong khí thế phấn khởi chung của đất nước trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và nhân dân phấn khởi bước vào thời kỳ mới, thời kỳ lao động sản xuất, xây dựng quê hương giàu mạnh.
       Bước vào chặng đường mới, Đảng bộ và nhân dân gặp phải không ít khó khăn, trở ngại. Cơ sở vật chất của các hợp tác xã vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thất thoát và hư hỏng nhiều qua những năm chiến tranh. Đại đa số nhân dân lao động đều bị thiếu ăn từ 3-5 tháng. Đời sống tinh thần, trình độ văn hóa thấp. Phong tục tập quán còn nhiều hủ tục phong kiến nặng nề. Nạn mê tín dị đoan còn khá phổ biến. Những vùng dân cư đông đúc như Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Xuân An lại quy tụ trên một vùng đất trồng lúa, ẩm thấp, quanh năm ngập lụt; chỉ một vài trận mưa nước và rác thải đã dâng lên khắp đường thôn, ngõ xóm. Môi trường sinh thái bị ô nhiễm. Lúa là cây lương thực chủ yếu nhưng năng suất hàng năm không vượt quá 4 tấn/ha.
       Để vượt qua thách thức đó, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân phải nỗ lực, cố gắng phấn đấu, thực hiện công tác di dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đưa quê hương ngày thêm giàu mạnh.
       I. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUỲNH XUÂN KHÔI PHỤC KINH TẾ, BƯỚC ĐẦU CHUYỂN ĐỔI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ (1976 - 1986).
       1. Thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 - 1980)
Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ khóa XI (1976) đã chỉ rõ: “Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là chuyển Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Xuân An gồm 800 hộ dân cư lên các chân đồi, núi ở phía Bắc ” .
       Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng bộ, tạo điều kiện mở rộng diện tích canh tác và giải phóng cho hàng ngàn nông dân lao động ra khỏi cảnh ao tù nước đọng đi lên những vùng đất cao ráo, thoáng mát… Nghị quyết dời chuyển dân cư Đại hội XI nhất trí thông qua, được đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ủng hộ, đươc thể hiện ý chí quyết tâm: “Đưa mạ vào sân, chuyển dân lên rú (đồi)”. Đây là bước đột phá để chuyển mình, vươn lên sánh vai cùng các xã, tromg Huyện, Thị.
       Việc triển khai Nghị quyết chuyển dời dân cư, Quỳnh Xuân cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại mà nặng nề nhất là tâm lý an phận với mảnh đất cũ, ngại dời nhà đến những vùng đất mới. Vì thế, có người đã nằm chắn trước máy san ủi đất để phản đối chủ trương của Đảng bộ và chính quyền. Các đồng chí lãnh đạo và Ban chỉ đạo đã đến từng nhà để động viên nông dân, giải thích chủ trương của Đảng ủy và chính quyền. Đồng thời giúp các gia đình xã viên khắc phục khó khăn trong việc di chuyển địa điểm. Hợp tác xã nông nghiệp cũng tiến hành thống kê, phân loại cụ thể từng loại tài sản của xã viên để có mức đầu tư công điểm, di chuyển cho xã viên một cách hợp lý. Hợp tác xã lập ra các đội chuyên như: đội vận tải, đội xây nề, đội thợ mộc…để làm các công trình của tập thể và hỗ trợ các xã viên gặp khó khăn về phương tiện và nhân lực.
       Nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng ủy, chính quyền và Ban quản trị hợp tác xã, chỉ một thời gian ngắn gần 680 hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở 3 làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Xuân An cũ được dời lên ở dọc chân đồi. Tại các nơi mới, nhà cửa của xã viên được quy hoạch có hàng, có lối. Mỗi gia đình có một mảnh vườn từ 250m2 đến 1 sào. Hợp tác xã có thêm 85 hec ta đất để thâm canh lúa và hoa màu; mở đoạn đường từ ngã tư đi xuống Quỳnh Liên. Đến cuối năm 1976, công việc dời chuyển dân cư cơ bản hoàn thành.
       Đi đôi với việc sắp xếp lại khu vực dân cư, Đảng bộ tập trung công sức vào việc cải tạo đồng ruộng. Tính đến cuối năm 1976, Đảng bộ và nhân dân đã cải tạo được trên 30 hec ta diện tích đất thổ cư cũ, 15 héc ta vùng Hói Đăng và vỡ hoang thêm được 37 héc ta đất vùng đồi; trên 50% diện tích đất canh tác của hợp tác xã đã được cải tạo để đưa cơ giới hóa vào sản xuất; sản lượng lương thực đạt 412 tấn lúa, 231 tấn khoai, 8,8 tấn đậu các loại. Ngoài lúa và hoa màu, xã viên còn thu nhập hàng trăm ngàn đồng từ rau vụ đông trồng trong vườn. Đời sống vật chất, tinh thần và môi trường cư trú được cải thiện.
        Cùng với trồng trọt, chăn nuôi cũng có bước phát triển. Việc chuyển địa bàn cư trú và canh tác nên đàn gia súc, gia cầm ở khu vực tập thể cũng như hộ gia đình phát triển hơn trước. Tính đến năm 1977, Quỳnh Xuân đã có tổng đàn trâu 135 con, bò 552 con, lợn 1051 con và dê 45 con và hàng ngàn con gà, vịt góp một phần đáng kể vào việc bảo đảm đời sống nhân dân, làm nghĩa vụ cho Nhà nước, trong thời kỳ bao cấp. Quỳnh Xuân là một trong những xã của huyện Quỳnh Lưu hoàn thành sớm và vượt mức 17 tấn thực phẩm.
          Trong giai đoạn này, sự nghiệp giáo dục, y tế cũng được đảng bộ và chính quyền quan tâm, đầu tư xây dựng. Trường cấp 1 - 2 được nhập thành trường phổ thông cơ sở, xây dựng lại khang trang với 25 phòng học, 980 học sinh và 30 cán bộ giáo viên, đáp ứng nhu cầu dạy và học cho con em.
          Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được quan tâm. Năm 1978, Trạm y tế được di dời từ vị trí Giếng Đồng lên đồng Chặng Hùng (khối 14 ngày nay). Trạm được xây mới 3 ngôi nhà: 1 ngôi nhà phục vụ công tác dược bán thuốc, 1 nhà làm phòng trực, hội họp, giao ban và điều trị, 1 nhà phục vụ công tác kế hoạch hóa gia đình. Phát huy truyền thống chữa trị bệnh thời kỳ chống Mỹ, trạm y tế đã làm tốt việc chữa bệnh theo hướng đông - tây y kết hợp, xây dựng vườn thuốc nam với đủ các loại cây thuốc góp phần điều trị bệnh hiệu quả cho nhân dân. Việc tuyên truyền và phổ cập cho nhân dân cách phòng chống dịch bệnh hàng năm được chú trọng. Mạng lưới y tế từ xã đến thôn được củng cố, kiện toàn. Tổ chức nhiều đợt phun thuốc diệt muỗi, phòng trừ bệnh sốt rét, công tác y tế dự phòng cũng được quan tâm, phong trào vệ sinh phòng bệnh, thực hiện trong mỗi gia đình đều có bể cạn chứa nước sạch, giếng nước và hố xí hai ngăn hợp vệ sinh; triển khai tiêm chủng, phòng tránh các loại bệnh như đậu mùa, tả... có hiệu quả. Trên địa bàn xã nhiều năm không để xẩy ra dịch bệnh, không gây ảnh hưởng sức khoẻ nhân dân. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được tiến hành thường xuyên, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp tránh thai diễn ra hiệu quả nên đã hạ được tỷ lệ phát triển dân số. Các công trình nhà trẻ, hội trường cũng được quy hoạch xây dựng, tạo cho khu dân cư mới của xã có một bề thế, đầy sức sống.
          Những thành tích bước đầu của Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân đã thể hiện sự thành công của tư tưởng dám nghĩ, dám làm, năng động và đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, sự động viên cổ vũ của cả hệ thống chính trị - xã hội. Những kết quả đó đã mở ra một triển vọng tiến lên trên con đường phát triển kinh tế và tổ chức đời sống ở xã nhà. Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Lưu đã đánh giá lại việc bố trí lại dân cư, tổ chức lại sản xuất của Quỳnh Xuân thực sự như một cuộc cách mạng có tác dụng cổ vũ phong trào chung của toàn huyện Quỳnh Lưu.
          Việc tổ chức lại sản xuất, đưa cơ giới hoá vào sản xuất cùng với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; xây dựng giao thông thủy lợi một cách đồng bộ. Các trục đường liên thôn, liên xã được uốn nắm đào đắp... đã có vai trò tích cực, quan trọng để phát triển nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm, thúc đẩy giao lưu hàng hoá, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng phát triển lực lượng sản xuất và cải tạo quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Diện tích ô thửa được hình thành, công tác làm thủy lợi được đẩy mạnh. Năm 1978, công trình thủy lợi Vực Mấu được khởi công xây dựng, đây là công trình lớn nhất ở Bắc miền Trung do ta thiết kế và thi công trong cuối thế kỷ XX. Công trình nằm ở phía Tây Bắc huyện Quỳnh Lưu, thuộc vùng giáp ranh 3 xã: Quỳnh Trang, Quỳnh Thắng và Quỳnh Tân. Hồ hoàn thành sẽ tưới được hơn 2.000 ha đồng ruộng cho vùng Tây Bắc và cản lũ hàng năm cho các xã ở hạ nguồn sông Hoàng Mai, đồng thời tạo ra môi trường cảnh quan sinh thái, thu hút du lịch. Công trình thể hiện phương châm: "Nhà nước và nhân dân cùng làm", công trình hoàn thành với sự đóng góp hơn 3 triệu ngày công, đào đắp được 1,6 triệu m3... Tổng kinh phí công trình 19 triệu đồng (tương đương với ngày nay hơn 200 tỷ đồng), trong đó Trung ương hộ trợ 1/3 kinh phí, còn lại là sức dân đóng góp. Trong công trình chung của huyện, Đảng bộ và nhân dân đã tham gia tích cực, thành lập Ban chỉ đạo điều nhân lực hàng vạn ngày công, ngày đêm dầm mưa, giải nắng cùng các đơn vị chủ lực: Quỳnh Tân, Quỳnh Xuân, Quỳnh Trang, Quỳnh Thắng, Mai Hùng và các xã khác trong huyện đóng góp.  
Việc duy trì quá lâu cơ chế bao cấp và chế độ tem phiếu đã gây nhiều cản trở cho người sản xuất, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng vọt. Về năng suất cây trồng, vật nuôi, mức sống của người lao động trong một thời gian dài còn rất thấp so với yêu cầu chung của đất nước và nhu cầu của nhân dân địa phương. Nguyên nhân như báo cáo của Đảng ủy tại Đại hội Đảng bộ Quỳnh Xuân khóa XV (1978) đã đề cập đó là:
“Quản lý lao động không chặt chẽ. Định mức trả thù lao cho lao động không hợp lý, thưởng phạt không nghiêm minh v.v…”(1).
          Trong việc xây dựng các hợp tác xã bậc cao, nhưng cán bộ quản lý chưa được bồi dưỡng, đào tạo kịp thời, trình độ quản lý theo kế hoạch còn yếu, nhất là khâu điều hành sản xuất, quản lý ngày công định mức không hợp lý trong từng công việc, xã viên chỉ chọn việc dễ để làm, dẫn đến tình trạng "rong công phóng điểm", giá trị ngày công thấp, xã viên chán nản. Vụ nào cao nhất cũng chỉ đạt 1kg thóc/công, nhiều năm chỉ đạt 0,3-0,5 kg/công; mức ăn theo định lượng một lao động chính đạt 300 công và 15 kg/tháng, nhưng thường không đạt. Thêm vào đó, không còn viện trợ lương thực của các nước bạn nên việc huy động nghĩa vụ lương thực, thực phẩm của nông dân cho Nhà nước tăng cao, dẫn đến tình trạng thiếu hụt lương thực. Đây không chỉ là tình trạng riêng của Quỳnh Xuân mà là thực trạng chung của cả nước.
          Những năm 1978 - 1979, thiên tai diễn ra dồn dập trên toàn huyện làm cho mùa màng thất bát, mức ăn lại càng thấp, đời sống nhân dân thêm khó khăn. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình hình trên bán đảo Đông Dương. Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch ráo riết tiến hành chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng tiến hành bao vây cấm vận về kinh tế, kết hợp với các phần tử phản động, bất mãn, xuyên tạc vu khống nhằm chống lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chúng kích động lôi cuốn những phần tử thoái hóa trong nội bộ Đảng tiến hành gây bạo loạn lật đổ. Nghiêm trọng hơn, ngày 17/2/1979 chúng điên cuồng phát động cuộc chiến tranh Biên giới phía Bắc.
          Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm lăng, ngày 3/3/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức chống xâm lược. ngày 4/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ban hành lệnh Tổng động viên.
          Đảng bộ và nhân dân lại bước vào một thời kỳ mới, huy động tổng lực sức người, sức của cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Lực lượng thanh niên lại xung phong nô nức tòng quân, gia nhập lực lượng vũ trang. Nhiều cựu chiến binh đã trải qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, vẻ vang của dân tộc, nay được nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ, đoàn tụ với gia đình, xây dựng quê hương, nhưng trước lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và lệnh Tổng động viên, họ không ngần ngại một lần nữa quên thân vì nước, lên đường nhập ngũ.
          Tại quê nhà, Đảng bộ và nhân dân cùng với huyện tham gia phòng thủ. Quỳnh Xuân nằm ở cụm số IX, trong chín cụm chiến đấu của toàn huyện gồm:
Quỳnh Xuân, Quỳnh Tân và Quỳnh Văn. Thực hiện chủ trương của trên, toàn xã đã làm được 3 vạn chông tre, 2.000 chông sắt và huy động quyên góp khoảng 200-300 gốc tre tươi. Mỗi dân quân tự vệ đóng góp một cọc chống tăng, mỗi công nhân viên chức có một bàn chông sắt 5 mũi. Tổ chức, huy động được từ 300-500 lượt người và cán bộ, công nhân viên chức tham gia xây dựng phòng thủ tuyến ven biển; xây dựng hệ thống lô cốt, thành lập tiểu đoàn cơ động, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
2. Bước đầu thực hiện cơ chế quản lý mới
          Năm 1980-1981, là thời kỳ khó khăn nhất của Đảng bộ và nhân dân, sức ép của hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; việc huy động nhân dân đi xây dựng các công trình của tỉnh và huyện như: Ba ra Đô Lương, sông Nghèn, kênh Bình Sơn, trọng điểm là hồ Vực Mấu... kinh tế sa sút nghiêm trọng, lương thực thiếu thốn, nhân dân phải bỏ ruộng chạy chợ. Hợp tác xã phải chạy đến nhiều nơi để mua lương thực cung cấp cho dân, ngoài thị trường giá lương thực, thực phẩm tăng vọt. Các tầng lớp được cấp lương thực theo tem phiếu cũng gặp nhiều khó khăn, mức phân phối không đủ. Tình hình kinh tế - xã hội của xã nằm trong bối cảnh chung của cả nước. Cả nước bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cơ chế bao cấp đang cản trở sự phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực phân phối lưu thông về kinh tế nông nghiệp. Việc đổi tiền năm 1978 cũng như hiện tượng "ngăn sông, cấm chợ" làm cho tình hình thêm phức tạp.
          Để tháo gỡ khó khăn cho nông dân, thúc đẩy sản xuất phát triển, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW, về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, nhằm phát huy tinh thần làm chủ của xã viên, tinh thần lao động sáng tạo của người lao động. Đây là sự chuyển biến lớn về nhận thức quản lý nông nghiệp của Đảng ta, từ đó đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ chế quản lý sang các lĩnh vực khác.
          Đảng bộ và nhân dân, phấn khởi đón nhận Chỉ thị 100-CT/TW, đồng thời thực hiện tốt các Nghị quyết đại hội đảng bộ, bám sát thực tế địa phương, giải quyết từng bước các mục tiêu kinh tế - xã hội trên địa bàn, không ngừng phấn đấu đưa năng suất cây trồng và vật nuôi tăng lên, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Thực hiện chủ trương của trên, hợp tác xã đã nâng cao năng suất sản lượng, mở mang ngành nghề tăng giá trị sản xuất, nâng cao đời sống cho nhân dân, các ngành nghề mới ra đời: đóng tàu vận tải biển 2 chiếc có công suất 23 mã lực, trọng tải 50 tấn để vận chuyển hàng hóa từ Quảng Ninh về phục vụ, ngành tiểu thủ công nghiệp, mở lò đốt vôi liên hoàn và sản xuất ngói dập, xây dựng đội vận chuyển bằng xe trâu kéo để phục vụ ngành nghề. Cải tạo đồng 3/2, đồng Rộc Mồ. Xây dựng cánh đồng muối với diện tích 40 ha, sản lượng muối cấp ra thị trường hàng ngàn tấn.
          Cải tạo đồng nước mặn, hình thành các vùng chăn nuôi tôm nước lợ, nhập cho nhà máy đông lạnh Cửa Hội; tập trung vay vốn mua hươu sao giống tại Xí nghiệp chăn nuôi Hương Sơn (Hà Tĩnh), để phát triển nghề nuôi hươu sao lấy nhung, là bước đột phá mạnh mẽ, vươn lên và thời kỳ này”Quỳnh Xuân đi lên từ con hươu”. Xây dựng cống ngăn mặn 4B để đảm bảo phục vụ sản xuất nông nghiệp, đào kênh tưới nước ngọt từ đội 22 - 23 (nay là khối 8) đi qua xóm Xuân An để thau chua, rửa mặn sản xuất nông nghiệp. Xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi phục vụ cho hợp tác xã và nhân dân như: Hội trường, nhà làm việc, nhà trẻ, sân phơi, đồng thời mua thêm máy kéo để vận chuyển nguyên vật liệu xây dựng, vận chuyển thóc, lợn để nhập cho Nhà nước. Xây bờ chống lũ phục vụ dân cư vùng cầu La Bà.
          Đối với xã viên, nhận và cải tạo đồng ruộng dần dần từng bước. Tự xã viên bỏ tiền ra mua sắm trâu, bò để lấy sức kéo, phân bón phục vụ sản xuất. Việc khoán theo Chỉ thị 100-CT/TW đã làm cho nông dân quan tâm hơn đến đất đai trồng trọt, nâng cao tinh thần chủ động trong sản xuất, nguồn nhân lực được huy động, ý thức làm chủ cũng được nâng cao; xã viên hăng hái, chủ động thực hiện các biện pháp thâm canh, tăng năng suất để hưởng mức vượt khoán. Đa số xã viên nhận khoán đều vượt sản lượng được giao.
       Việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã có tác động thúc đẩy việc cải tiến quản lý ở các hợp tác xã, bảo đảm cho người lao động tự do sáng tạo, phát huy sáng kiến, tăng năng suất để vượt mức khoán, hài hoà được cả ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động. Ngoài thâm canh hai vụ lúa, nhân dân bắt đầu làm vụ đông, thời kỳ đầu chủ yếu là khoai lang. Tổng sản lượng lương thực tăng nhanh, tính đến cuối năm 1986, Quỳnh Xuân đã đạt được 1.192 tấn lương thực với tổng giá trị 8.781.000đ. Đóng góp nghĩa vụ đạt 304 tấn, vượt 15 tấn so với năm 1976. Về chăn nuôi cũng giành được những kết quả lớn, tổng đàn gia súc, gia cầm tăng từ 5-10%. Riêng đàn hươu từ 62 con (năm 1985) lên 140 con năm 1986 đạt 226%. Có được những thành quả đó là do: “toàn Đảng bộ đoàn kết nhất trí cao, đảng bộ đã biết đầu tư vào lao động sống”, “việc phân bổ lao động hợp lý”. Điểm nổi bật là Đảng bộ đã “phát động được phong trào hành động của quần chúng trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng v.v..”(1).
Nhìn lại quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế mười năm sau chiến tranh, có thể khẳng định: đảng bộ Quỳnh Xuân đã phát huy được tính tự lực, tự cường biết khai thác tiềm năng hiện có và khơi dậy trí tuệ của nhân dân. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn vẫn bền bỉ, dẻo dai, bám đất, bám ruộng sản xuất. Đảng bộ cũng đã có nhiều quyết sách cụ thể để lãnh đạo vượt qua thời kỳ khủng hoảng để ổn định đời sống nhân dân, hoàn thành tốt các nghĩa vụ cho Nhà nước.
II- NHỮNG KHỞI SẮC BƯỚC ĐẦU TRONG THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986 - 2010).         
1. Mười lăm năn đầu thực hiện công cuộc đổi mới
 10 năm xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội (1975-1985), Quỳnh Xuân đã tạo ra những chuyển biến tích cực. Nhưng chuyển biến đó chưa làm thay đổi căn bản được tình hình kinh tế - xã hội. Trong khi đó cơ sở vật chất của địa phương còn nghèo nàn, lạc hậu. Số người thiếu việc làm vẫn tăng lên, thu nhập của người dân thấp, trong bối cảnh chung nền kinh tế nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
          Tháng 12-1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI diễn ra, với tinh thần: "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng sự thật", Đại hội đã khẳng định những thành tựu đạt được, nghiêm túc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo,chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời nêu lên những phương hướng, nhiệm vụ, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước tiếp tục đi lên. Đại hội nhấn mạnh những nhiệm vụ cơ bản là:
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; triệt để xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đại hội đã đề ra 3 chương trình kinh tế - Xã hội là chương trình lương thực, thực phẩm, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng. Về nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI khẳng định: "Tiếp tục xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa". Và xác định:
"Nhiệm vụ bảo toàn mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp  tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá cho những chặng đường tiếp theo"(2).
          Quán triệt đường lối của Đảng, thực hiện các Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh và huyện, đảng bộ đã đề ra nhiều chủ trương thích hợp với tình hình địa phương, từng bước đưa Quỳnh Xuân thoát ra khỏi tình trạng suy thoái về kinh tế - xã hội. Chủ trương thực hiện ba chương trình kinh tế cũng như việc phát triển kinh tế nhiều thành phần được đảng bộ và nhân dân tiếp thu và vận dụng nhanh chóng vào thực tiễn cuộc sống, đưa Quỳnh Xuân bước đầu có những khởi sắc.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, qua các nhiệm kỳ Đại hội, đảng bộ đã "nhìn thẳng vào sự thật", nhận thức rõ những khó khăn, thách thức đang gặp phải. Đó là kinh tế thuần nông, cơ sở vật chất ban đầu rất nhỏ bé, sản xuất nông nghiệp trong tình trạng hạn hán, lũ lụt thường xuyên xẩy ra làm mùa màng bấp bênh, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phần lớn trưởng thành từ thực tiễn, chưa có kinh nghiệm trong quản lý kinh tế, nhiều đồng chí chưa qua các trường lớp đào tạo...
Trong hai năm 1987-1988, thiên tai liên tiếp xẩy ra tại huyện Quỳnh Lưu. Vụ đông xuân 1986 -1987, huyện bị thiệt hại mất 4.000 tấn lương thực vì dịch đạo ôn; vụ mùa tiếp theo mất trắng 7.000 tấn lương thực. Sóng thần làm 16,5km đê ngăn mặn bị vỡ, làm ngập mặn 2.500 ha đã để lại hậu quả nặng nề cho nhiều năm sau. Trận lụt lịch sử năm 1987, lượng mưa trên 1.600 mm chỉ trong một thời gian ngắn làm cho mùa màng mất mát rất nặng nề, thu nhập của nhân dân thấp, đời sống có nhiều khó khăn. Vụ mùa năm 1988, hạn hán gay gắt diễn ra ở đầu vụ, cuối vụ lại bị úng lụt nặng, mất 7.500 tấn. Tình hình đó làm cho sản lượng lương thực bị giảm, bình quân lương thực đầu người toàn huyện năm 1987-1988 chỉ còn 211,5kg.
Trước tình hình đó, đảng bộ phát động tinh thần tự lực, tự cường, khai thác tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên và lao động của địa phương, phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày, hoa màu để giải quyết khó khăn trước mắt.
Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển, ngày 15- 4 -1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10/NQ/TW về đổi mới quản lý nông nghiệp. Nghị quyết 10 (dân thường gọi là khoán 10) đề ra cơ chế khoán mới trong các hợp tác xã nông nghiệp, thay thế cho Chỉ thị 100/CT-TW năm 1981.
Nghị quyết xác định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã, hợp tác xã khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động. Khoán 10 đã khắc phục được những hạn chế của Chỉ thị 100 trước đây, đáp ứng được sự mong ước, chờ đợi, nguyện vọng thiết tha của nông dân. Khoán 10 tạo cho người dân làm chủ trong sản xuất. HTX cũng hoàn thiện thêm cách quản lý theo phương thức mới.
Đảng bộ nhanh chóng nắm bắt tình hình, quán triệt đường lối của Trung ương và Chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy, phổ biến rộng rãi, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao nhận thức, tin tưởng vào đường lối của Đảng. Đảng bộ có nhiều chủ trương và biện pháp tích cực, cụ thể phù hợp với thực tiễn.
       Khoán 10, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực, bà con nông dân hết sức phấn khởi, phát huy được bản chất cần cù, chịu khó, tận dụng thời gian, bám đất, bám ruộng sản xuất, phát triển chăn nuôi (trâu, bò, lợn, dê, hươu là con chủ lực của nền kinh tế ...), khôi phục các nghề thủ công truyền thống như: nung vôi, khai thác đá, nung gạch, làm ngói v.v.. du nhập những ngành nghề mới với phương châm: “ai có khả năng gì làm việc ấy”.
       Để hỗ trợ cho bà con xã viên, lãnh đạo Đảng, chính quyền và hợp tác xã đã tạo mọi điều kiện làm nhanh thủ tục hành chính gắn liền sản xuất với lưu thông. Hỗ trợ một phần vốn đối với gia đình chính sách và gia đình gặp khó khăn… bằng nhiều biện pháp tích cực, từng bước khai thác tốt các thế mạnh về tiềm năng, giải quyết được việc làm cho xã viên, tăng nguồn thu ngân sách cho tập thể và địa phương.
       Đầu năm 1988, Quỳnh Xuân đã phân bố được 1.130 lao động (trên tổng số 2.360 lao động của toàn xã) cho 12 ngành nghề và đã phát huy được hiệu quả cao, trong đó:
       - 150 lao động chuyên chế biến thảm cói xuất khẩu, mỗi năm sản xuất được khoảng 10.000 bao mành.
       - 30 lao động làm gạch ngói tập thể, mỗi năm cho ra khoảng 20 vạn viên.
       - 45 lao động chuyên khai thác đá, mỗi năm đạt được hàng vạn mét khối, không những đáp ứng được nhu cầu xây dựng của địa phương mà còn lưu thông trong và ngoài huyện v.v. ..
       Để phục vụ nhu cầu về vật tư, nhiên liệu cho sản xuất và đời sống của nhân dân, Quỳnh Xuân đã mạnh dạn tổ chức một đội vận tải đường thủy với 2 đội tàu gắn máy trọng tải trên 80 tấn, biên chế 16 người. Tuy chưa quen với sông nước và gặp nhiều trở ngại về vốn, nhưng đội vận tải đã góp phần giải quyết được một phần nhu cầu về vật tư cho sản xuất và tăng thêm nguồn thu cho tập thể. Ngoài ra, Đảng ủy còn tập trung phát triển nhiều ngành nghề như: vận tải đường bộ, làm muối, đánh cá biển, trồng và bảo vệ rừng thông v.v… Đó là chưa kể tới hàng ngàn lao động đang nhận gia công tại gia đình các mặt hàng khác cho hợp tác xã, trong những thời gian rỗi việc đồng áng.
Nhờ tận dụng hết diện tích gieo trồng, khai hoang phục hoá mọi nơi, từ chân đồi đến các sông hói đều được nhân dân tận dụng gieo trồng hết diện tích. Các HTX đưa về các loại giống có năng suất cao như X1, CR203, Kháng Dân... thay cho các loại giống có năng suất thấp. Nhân dân cũng tìm kiếm các loại giống thích hợp đưa vào sản xuất, góp phần đáng kể vào việc tăng cả diện tích, năng suất và sản lượng.
Nhờ đẩy mạnh thâm canh, năng suất, sản lượng cây trồng tăng dần lên. Năm 1996, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 2.377 tấn, đến năm 1998 đạt 3.500 tấn. Năng suất bình quân đạt 300kg/sào, thu nhập giá trị bình quân 1.700.000 đồng/khẩu. Tổng thu nhập GDP tăng, năm 1996 trên 14 tỷ đồng, đến năm 1998 dự kiến trên 17 tỷ đồng. Ngoài trồng lúa, đẩy mạnh trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như lạc L14 , ngô Lai cho thu nhập cao.
 Cùng với đẩy mạnh trồng trọt, đảng bộ xã tập trung chỉ đạo phát triển chăn nuôi. Trong thời kỳ bao cấp, chăn nuôi theo nghĩa vụ, cộng với sự khó khăn về lương thực nên chăn nuôi không phát triển (năm 1976, đàn lợn có 920 con), các loại giống thường là thoái hoá, nên năng suất, hiệu quả đạt không cao, tỷ trọng chăn nuôi không đáng kể trong tổng thu nhập hàng năm. Từ ngày xoá bỏ bao cấp, chăn nuôi phát triển nhanh. Năm 1998, đàn trâu bò toàn xã có 670 con cày kéo. Đàn lợn năm 1988, có 2.400 con đến năm 1998 có 3.500 con, trong đó lợn nái 560 con. Chăn nuôi hươu lấy nhung sau một thời gian phát triển (năm 1990 toàn xã có trên 500 con, trong đó có gần 200 con hươu cái) đem lại hiệu quả kinh tế cao, do biến động của nền kinh tế thị trường, giá hươu giảm, vì thế tổng đàn hươu toàn xã năm 1998 còn 430 con. Ngoài ra, chăn nuôi các loại gia cầm như gà, vịt, ong lấy mật, cá, tôm... cũng có điều kiện phát triển, mở ra một hướng chăn nuôi mới cho người dân.
Kinh tế hộ gia đình phát triển khá đa dạng, phong phú, cho hiệu quả kinh tế cao và khá ổn định. Hàng năm, nhiều hộ gia đình có thu nhập từ chăn nuôi, trồng trọt lên tới hàng chục triệu đồng. Nhiều gia đình có tài sản cố định hàng chục triệu đồng… Một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy kinh tế hộ phát triển là Đảng bộ và chính quyền đã xác định đúng vị trí kinh tế hộ gia đình trong mối quan hệ với kinh tế tập thể, đề ra được những chính sách sát đúng có tác dụng kích thích kinh tế hộ phát triển.
       Trồng rừng, từng bước phát triển. Trong chiến tranh, diện tích rừng bị thu hẹp, chỉ còn lại một số rừng thông do nhà nước quản lý. Đất nước thống nhất, diện tích rừng không ngừng được tăng lên. Năm 1990, có 753 ha rừng thông, do Lâm trường quốc doanh Quỳnh Lưu quản lý mỗi năm thu hoạch khoảng 80 tấn nhựa (có năm đạt tới 120 tấn) với giá trị 1,2 – 1,5 triệu đồng/tấn (giá năm 1986). Rừng thông hàng năm đem lại cho Nhà nước hàng trăm triệu đồng. Năm 1986, thực hiện chủ trương của Nhà nước giao đất, giao rừng cho địa phương quản lý, lâm trường Quỳnh Lưu đã giao cho hợp tác xã Đại Liên 150 ha rừng. Qua 2 năm 1987, 1988, đội trồng rừng đã ươm trồng được hàng triệu cây trên các đồi núi Mù U, Núi Bé, Núi Bệp v.v…, diện tích rừng không ngừng được mở rộng. Năm 1992, thực hiện chủ trương của trên, đất rừng được giao cho các hộ quản lý, chăm sóc, bảo vệ. Năm 1998, đã trồng mới được 120 ha, xây dựng mô hình trồng cây ăn quả vườn hộ gia đình  20 ha, đưa độ che phủ của rừng từ 25% năm 1995 lên 35% năm 1998. Từ việc làm tốt công tác trồng rừng và bảo vệ rừng đã tạo ra môi trường sinh thái tốt hơn, tình hình lụt lội, lở đất ít xẩy ra.
Việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ cũng được đảng bộ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1998, có 26 nghề phụ lớn nhỏ, nghề sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá.... Hàng năm, giải quyết được việc làm cho hàng trăm lao động, đưa lại thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.
Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Đảng bộ và nhân dân đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, điện - đường - trường - trạm. Xã năm 1990, xã đầu tư xây dựng mới 3 dãy nhà bằng gạch, ngói, 24 phòng học (trường cấp 2) và 6 phòng học trường cấp 1 và nhiều công trình phúc lợi khác trị giá 805 triệu đồng; đầu tư xây dựng hệ thống đường điện 321 triệu đồng, giao thông 500 triệu đồng, hệ thống loa phát thanh 25 triệu đồng; công trình chợ 300 triệu đồng, bê tông hóa kênh mương 25 triệu đồng. Tổng số vốn xây dựng gần 2 tỷ đồng.
       Trên cơ sở những thành tựu phát triển về kinh tế, hoạt động văn hóa - xã hội cũng có nhiều tiến bộ.
       Do được đầu tư xây dựng nhiều phòng học, có khu nội trú khang trang, sạch đẹp cho giáo viên nên từ năm học 1990 – 1991, các trường đã chấm dứt tình trạng phải học “ba ca” như trước đây. Về chất lượng, được nâng lên, ba cấp học của các trường trên địa bàn xã hàng năm đều được trên xếp loại tiên tiến, xuất sắc.
       Trạm y tế khởi công xây dựng từ năm 1955, mặc dù trang thiết bị dụng cụ y tế còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, nhiều dịch bệnh đang xẩy ra trên địa bàn xã. Nhưng với phương châm "lương y như từ mẫu", đội ngũ cán bộ y tế xã luôn đạt cao trách nhiệm của người thầy thuốc, đặc biệt là đồng chí Cao Xuân Đề, trạm trưởng (có trình độ chuyên môn bác sỹ được đào tạo chính quy củ tại trường Đại học y khoa Thái Bình) đã có nhiều đóng góp trong việc khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. Ngoài việc điều trị một số căn bệnh thông thường cho người dân. Trạm tổ chức chế biến một số bài thuốc nam từ nguồn dược liệu tại chỗ, nhân dân.
       Trong điều kiện khó khăn về nguồn vốn, chưa có điều kiện đầu tư lớn cho các hoạt động văn hóa - xã hội. Nhưng với sự nỗ lực của Đảng bộ và người dân phong trào văn hóa - văn nghệ cũng có bước chuyển biến tích cực. Lắp đặt được hệ thống loa phát thanh xuống tận cơ sở, thông tin về kinh tế -  chính trị - xã hội trong cả nước, thế giới, cũng như nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã kịp thời đến được với người dân lao động. Việc chỉ đạo sản xuất và các hoạt động khác của Đảng bộ và chính quyền cũng nhanh chóng, thuận lợi hơn.
       Kinh tế - xã hội phát triển là điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năm 1998, toàn xã có 87 hộ giàu, 430 hộ khá. Toàn xã có 230 chiếc xe máy, 300 ti vi, 30  chiếc tủ lạnh, bộ mặt nông thôn được thay đổi.
       Từ một yếu kém về nghĩa vụ quân sự, đến nay Quỳnh Xuân luôn luôn hoàn thành về chỉ tiêu giao quân. Tình trạng thanh niên trốn lính, đào ngũ không còn xẩy ra thường xuyên như trước. Từ năm 1987, luôn được cấp trên công nhận là đơn vị quyết thắng trên các mặt trận an ninh - quốc phòng.
       Thực hiện nhiệm vụ do đại hội đảng bộ các khóa đề ra, bộ máy quản lý hợp tác  từng bước được tăng cường, củng cố, nâng cao trình độ, năng lực, hiệu quả. Ban quản lý hợp tác xã đã thực hiện có hiệu quả những dịch vụ nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện đầy đủ thuế nông nghiệp cho Nhà nước, giải quyết rõ ràng, minh bạch, nhanh gọn những vấn đề thuộc về tài chính, vốn đầu tư sản xuất, phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.
       Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm. Đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ gồm: 7 đồng chí có trình độ đại học, trình độ trung cấp 8 đồng chí, sơ cấp 2 đồng chí, lý luận chính trị phổ thông 18 đồng chí. Các ngành, các đoàn thể quần chúng cũng phát huy tốt vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chính trị, triển khai các Nghị quyết của trên xuống tận đội viên, đoàn viên, là những đơn vị khá của huyện Quỳnh Lưu, nhận được nhiều phần thưởng cao quý của cấp trên. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh được Trung ương Đoàn tặng cờ “ba xung kích”. Hội phụ nữ được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ - Tĩnh tặng bằng khen. Đảng bộ nhiều năm liền đạt trong sạch vững mạnh. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên có trình độ giác ngộ chính trị, được trang bị khoa học - kỹ thuật. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
       Tháng 2/1999, Hội nghị TW lần 2 (khóa VIII) bàn về: Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Hội nghị đã quyết định tiến hành cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Thực hiện tự phê bình và phê bình nhân dịp kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (02/9/1969 - 02/9/1999) và kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng (03/2/1930 - 03/2/2000). Đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình được cán bộ, đảng viên tiến hành một cách nghiêm túc, sâu rộng từ chi bộ đến đảng bộ. Mỗi người đều thấy rõ và khẳng định được những thành tựu do Đảng lãnh đạo và sự cố gắng của toàn dân, đồng thời cũng nghiêm túc chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm trong lãnh đạo. Việc điều hành và lề lối, phương pháp làm việc của cán bộ, đảng viên chủ yếu là cán bộ chủ chốt. Trên cơ sở đó tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng được tăng cường, vai trò tiên phong gương mẫu "nói đi đôi với làm" của cán bộ, đảng viên được đề cao.
       15 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2000) do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đảng bộ và nhân dân đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng, tạo tiền đề vững chắc, ổn định cho sự phát triển trong những năm tiếp theo.
       Bên cạnh những thành tích đạt được, Quỳnh Xuân còn tồn tại nhiều mặt hạn chế đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Sản xuất các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ còn ở mức thấp, nhỏ lẻ, thiếu hiệu quả. Việc thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao đất lâu dài cho nông dân và chuyển đổi đất còn chậm, manh mún. Hiệu quả trong chăn nuôi đạt thấp, mô hình phát triển kinh tế vườn - ao - chuồng chưa cao. Việc huy động sức dân xây dựng cơ sở hạ tầng còn yếu. Trong xây dựng đảng, công tác kiểm tra, giám sát chưa nghiêm, chưa thường xuyên. Đó là khó khăn lớn mà Đảng bộ và nhân dân phải nổ lực vượt qua.
  2. Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân cùng cả nước đẩy mạnh CNH - HĐH (2000-2010)
       Năm 2000, năm đầu tiên bước vào thiên niên kỷ mới, trong bối cảnh công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ngày càng phát triển toàn diện, tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội. Đại hội, Đại biểu Đảng bộ khóa XXIV (nhiệm kỳ 2001-2005) đã diễn ra. Đại hội đã thảo luận và thông qua báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XXIII, đề ra mục tiêu nhiệm vụ mới. Trong đó tập trung phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh; khai thác triệt để các tiềm năng và lợi thế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực, phát triển mở mang nhiều ngành nghề, nhiều hình thức, nhiều mô hình kinh tế... từng bước cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị, xây dựng cơ sở hạ tầng, đưa Quỳnh Xuân ngày càng phát triển giàu mạnh.
       Đại hội bầu Ban Chấp hành và phân công:
       1. Đồng chí: Nguyễn Đình Tề - Bí thư đảng bộ, (từ tháng 10/2003, đồng chí Tề được huyện điều lên, Ban Chấp hành bầu bổ sung đồng chí Hồ Văn Ánh làm Bí thư).
       2. Nguyễn Duy Thao - Phó Bí thư trực Đảng.
       3. Đồng chí: Hồ Văn Ánh - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND (từ tháng 10/2003, đồng chí Ánh lên thay đ/c Tề làm Bí thư).
       Bước vào thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI), năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XXIV của Đảng bộ xã, Đảng bộ và nhân dân hăng hái bước vào đợt thi đua mới đạt được nhiều thành tích về kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị.
       Năm 2005, tổng sản lượng lương thực đạt 4.800 tấn; tăng 1.340 tấn so với năm 2001; tổng giá trị sản xuất đạt 58 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2000 (30 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm (2000-2005) là 14,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Tỷ trọng nông - lâm nghiệp có xu hướng giảm từ 42% năm 2000, xuống 40% năm 2005. Tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ tăng từ 57,5% năm 2000 đến 59,45 năm 2005. Thu nhập bình quân đầu người tăng 2,6 triệu đồng năm 2000 lên 4,5 triệu đồng năm 2005. Do việc đưa nhanh các loại giống cây, con mới vào sản xuất, chuyển đổi ruộng đất, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật làm tăng nhanh sản lượng và giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích. Vụ đông được mở rộng, trở thành vụ sản xuất chính. Cây trồng chủ yếu là lúa Lai, diện tích 215 ha, bình quân đạt 50 tạ/ha năm 2004. Diện tích ngô vụ thu 100 ha. Xây dựng được mô hình cánh đồng đạt giá trị 50 triệu đồng/ha. Sau chuyển đổi đất, một số diện tích trồng lúa năng suất thấp được chuyển sang trồng rau màu, nuôi trồng thủy sản, đem lại hiệu quả kinh tế khá.
       Chăn nuôi có bước phát triển rõ nét về cả tổng đàn và giá trị thu nhập. Năm 2005, tổng đàn trâu 385 con, tăng 5,4%, đàn bò 998 con, tăng 13,9% so với năm 2000. Đàn lợn có 5.201 con, tăng 87%, bình quân mỗi hộ gia đình có từ 2 - 3 con; đàn hươu sao 295 con, tăng 5,4%... Tổng giá trị sản xuất năm 2005 ước đạt gần 13 triệu đồng tăng gấp 2 lần so với năm 2000, 6 triệu đồng. Đảng ủy chủ trương xử lý 54 ha đất nuôi trồng thủy sản và tiếp tục chuyển đổi đất nông nghiệp thu nhập thấp sang nuôi trồng thủy sản, đưa diện tích nuôi trồng thủy sản lên 60 ha, năng xuất đạt từ 1-4 tấn/ha. Mô hình cá - lúa, có bước chuyển rõ nét, đem lại hiệu quả.
       Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - xây dựng phát triển khá sôi động. Trên địa bàn Quỳnh Xuân có 10 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hình thành, hoạt động có hiệu quả, các nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh như chế biến vật liệu xây dựng đá các loại, vôi, ngói... tạo việc làm tại chỗ cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người dân. Toàn xã có 212 chiếc xe các loại, trong đó: ô tô 50 chiếc, máy xúc các loại 25 chiếc, công nông 143 chiếc. Tổng giá trị sản xuất năm 2005 đạt gần 30 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2000 là 16 triệu đồng.
       Xây dựng cơ bản được đầu tư, xây mới 6 trạm điện tư nhân, 4 trạm bơm di động phục vụ tưới nước cho những nơi thiếu chủ động nước. Nâng cấp trạm y tế, làm mới 5 phòng, xây dựng 7 km đường bê tông, 15 km đường cấp phối; 17 cầu, cống lớn nhỏ; bê tông hóa kênh mương 7 km; 36 phòng học cấp 4, nhà văn hóa đa chức năng tại các trường học; bê tông hóa 3 sân trường và sân công sở, xây dựng tường bao trường tiểu học và trường mầm non, tường bao sân vận động trung tâm, trạm y tế. Làm mới 9 hội trường nhà văn hóa thôn, xóm, nhà trực công an, hội trường xã. Xây dựng 2 nhà tình nghĩa, Nghinh môn đền Xuân Hòa, sửa chữa đền Phùng Hưng. Tổng mức đầu tư xây dựng trong 5 năm là 5,3 tỷ đồng.
       Phong trào "Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa" được thực hiện đều khắp, hoạt động văn hóa văn nghệ được giữ vững và phát triển nhanh, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng cao. Quỳnh Xuân đã có 7/16 xóm và 3/4 trường học đạt xóm, trường văn hóa, 81 hộ gia đình đạt gia đình văn hóa tiêu biểu, 2 di tích lịch sử được tiếp tục tôn tạo. Hệ thống truyền thanh được nâng cấp và thông tin đến 15/16 xóm, 100 % hộ gia đình được dùng điện thắp sáng.
       Sự nghiệp giáo dục đạt được nhiều thành tựu, công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng cao, tạo được ý thức toàn dân chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo dục. Toàn xã có 3.650 học sinh học ở 4 cấp học. Năm 2002, Trường Tiểu học A đạt chuẩn quốc gia, và đạt đơn vị văn hóa. Trường Trung học cơ sở hoàn thành phổ cập năm 2002, đạt đơn vị văn hóa, chuẩn quốc gia năm 2004. Trường Tiểu  học B đạt đơn vị văn hóa năm 2005. Hàng năm, các trường đều được trên xếp loại tiên tiến, xuất sắc. Chất lượng dạy và học ngày được nâng lên, trong 5 năm số giáo viên dạy giỏi, học sinh học giỏi các cấp, học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng, gồm 1.806 lượt em, trong đó giỏi cấp tỉnh 50 em, cấp huyện 471 em, cấp trường 1.385 em, học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng 123 em.
       Công tác y tế dự phòng được thực hiện tốt, không để dịch bệnh xẩy ra, hoàn thành tốt các chương trình y tế quốc gia. Đội ngũ cán bộ y tế từ trạm đến cơ sở đủ về số lượng, nhiệt tình và có chất lượng. Nhờ sự quan tâm đúng mức tới công tác truyền thông dân số, tỷ lệ phát triển dân số, sinh con thứ 3 giảm; tỷ lệ suy dinh dưỡng  năm 2005 là 26,1%, giảm so với năm 2000 là 13,9%.
       Công tác đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và phòng chống các tệ nạn xã hội được thực hiện tốt. Trong 5 năm đã huy động 105 triệu đồng quỹ tình nghĩa, gần 18 triệu đồng quỹ vì người nghèo; xây dựng 2 nhà tình nghĩa, tặng 60 sổ tiết kiệm, ủng hộ xây dựng 1 nhà đại đoàn kết, tu sửa 10 nhà đối tượng chính sách xã hội, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,5%.
       Công tác Quốc phòng - An ninh luôn được chú trọng quan tâm. Xã xây dựng được 119 tổ tự quản ở các xóm, giải quyết tốt các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Đảng ủy thường xuyên chăm lo giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, nên các vụ việc xẩy ra trên địa bàn ngày càng giảm, không có đơn thư khiếu nại tồn đọng, vượt cấp. Các vụ việc được giải quyết kịp thời, có tình, có lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Kết quả, Công an xã 3 năm liền (2001-2003) được Bộ Công an tặng đơn vị lá cờ đầu "phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc".
       Xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh là yếu tố hàng đầu quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội, được Đảng bộ chú trọng quan tâm. Đã thường xuyên chăm lo tới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập các nghị quyết của cấp trên, nghe thời sự đạt 90%. Đã xây dựng và bổ sung quy chế làm việc và 18 tiêu chí để các chi bộ, ngành phấn đấu thi đua hàng năm; Xây dựng chương trình công tác, chương trình kiểm tra tháng, quý, năm đều đặn nghiêm túc, đảm bảo chế độ sinh hoạt từ Đảng bộ đến chi bộ theo quy định Điều lệ Đảng. Đặc biệt trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo, Đảng ủy đã đề ra chủ trương, ban hành các Nghị quyết sát với tình hình địa phương.
       Đảng ủy đã thực hiện nghiêm túc quy trình xây dựng và bổ sung quy hoạch điều chỉnh cán bộ, việc bố trí đề bạt, sử dụng cán bộ đảm bảo dân chủ, khách quan; gắn các thế hệ cán bộ và chuyển giao cán bộ hợp lý. Trong 5 năm, cấp ủy đã cử 16 đồng chí đi học chuyên ngành (trong đó 2 đồng chí đại học, 10 đồng chí cử nhân, 4 đồng chí trung cấp), 10 đồng chí trung cấp chính trị, 16 đồng chí sơ cấp chính trị và 8 đồng chí học bổ túc văn hóa trung học. Đội ngũ cán bộ đoàn kết, trưởng thành, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
       Công tác đảng được thực hiện tốt, việc phân công nhiệm vụ đảng viên gắn với kiểm tra, thi đua khen thưởng, đổi thẻ đảng viên nên đã phát huy được tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu, tính chiến đấu, và năng lực lãnh đạo của đảng viên. Trong nhiệm kỳ, số đảng viên hoàn thành xuất sắc và hoàn thành nhiệm vụ chiếm 98%, tăng 17% so với Đại hội khóa XXIV. Kết nạp vào Đảng 75 đồng chí, trong đó có 1 đảng viên giáo dân, tăng 26 đồng chí so với nhiệm kỳ trước, có 18 chi bộ kết nạp được đảng viên.
       Trong nhiệm kỳ (2001-2005), hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục được chú trọng đổi mới về phương thức, cải tiến về lề lối, bám sát hơn thực tiễn cuộc sống lao động, sản xuất của nhân dân từng thôn xóm. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trong việc cụ thể hóa nhiệm vụ của cấp ủy Đảng trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng -an ninh, Ủy ban nhân dân đã hướng mạnh về cơ sở, tập trung chỉ đạo, điều hành hệ thống chính quyền từ xã tới xóm ngày càng có hiệu quả. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cở sở, phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả tinh thần làm chủ của nhân dân.
       Nhiệm kỳ 2001-2005, là nhiệm kỳ mở đầu của thiên niên kỷ mới, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân đạt được là khá toàn diện, phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn và có hiệu quả của Đảng bộ. Là kết quả của sự nổ lực, phấn đấu của mọi người, mọi nhà, phát huy tiềm năng, thế mạnh của quê hương. Kết quả của sự đồng thuận giữa Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân.
       Trong không khí tự hào, phấn khởi trước những thành tựu quan trọng trong 20 năm đổi mới của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên mọi miền đất nước. Từ ngày 24-26/7/2005, Đảng bộ phấn khởi, tin tưởng bước vào Đại hội, Đại biểu khóa XXVI (nhiệm kỳ 2005-2010) với khí thế và quyết tâm mới. Chủ đề Đại hội là: Phát huy tối đa nội lực, thu hút đầu tư từ bên ngoài, phát huy tốt tiềm năng và lợi thế để tăng tốc kinh tế; phát triển văn hóa xã hội; xây dựng củng cố quốc phòng, anh ninh vững chắc. Xây dựng Quỳnh Xuân trở thành: "Xã giàu mạnh, xã văn hóa". 
       Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong nhiệm kỳ, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu, làm cơ sở cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ cho nhiệm kỳ mới, đó là:
       1. Kịp thời nắm bắt và lựa chọn các vấn đề trọng tâm để quyết định các chủ trương, nhiệm vụ sát đúng với tình hình địa phương và tổ chức chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, dứt diểm.
       2. Tạo điều kiện, cơ chế thuận lợi để cán bộ, đảng viên và nhân dân phát huy tích cực năng động, sáng tạo nhất là trong lĩnh vực sản suất, kinh doanh... Từ đó rút kinh nghiệm tổng kết phong trào, nhân rộng điển hình, mô hình tiên tiến.
       3. Lựa chọn, bố trí cán bộ trên cơ sở, quy hoạch đào tạo, rèn luyện, thử thách, đảm bảo tiêu chuẩn, năng lực, trình độ và sự tín nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
       4. Các nhiệm vụ đề ra, có sự phân công, thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả, nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu. Tinh thần dám nghĩ, dám làm; thái độ quyết liệt của cán bộ là yếu tố quyết định phong trào, quyết định sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực.
       5. Mở rộng dân chủ, tăng cường kiểm tra, phát hiện xử lý kịp thời các vi phạm, là yếu tố quyết định tạo lập niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, ý thức thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và địa phương.
       Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu chính đến năm 2010.
       - Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 15-16%.
       + Tỷ trọng các ngành kinh tế:
       - Nông nghiệp 28%.
       - Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề 38%, đạt giá trị từ 17-18%/năm.
       - Dịch vụ - thương mại 34%, tăng 16-17%/năm.
       - Sản lượng lương thực năm 2010 đạt 4.600 tấn, tăng 4%.
       - Bình quân lương thực đầu người đạt 306 kg.
       - Tổng sản lượng tôm sú năm 2010 đạt 150 tấn, năng suất bình quân 1 - 2 tấn/ha/năm.
       - Sản lượng cá nước ngọt năm 2010: 160 tấn, năng suất bình quân 2 - 3 tấn/ha/năm.
       - Tổng giá trị thu nhập năm 2010, 150 tỷ đồng.
       - Ngân sách hàng năm 12-13%.
       - Tỷ lệ hộ gia đình văn hóa 90% trở lên, 100% xóm, trường học, trạm y tế đạt văn hóa; đạt (xã văn hóa) năm 2007.
- 3 cấp học Mầm non, tiểu học, THCS đạt chuẩn quốc gia.
- Tỷ lệ phát triển dân số giảm hàng năm 0,1%.
-  Tỷ lệ hộ dùng nước sạch trên 80% - 90% hộ có công trình hợp vệ sinh.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%.
- Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 80% trở lên, mỗi chi bộ hàng năm kết nạp từ 1 - 2 đảng viên, không có xóm trắng chi bộ.
- 100% cán bộ chủ trì có trình độ chính trị, chuyên môn; trung cấp, cao đẳng, đại học, 50% bí thư, xóm trưởng có trình độ trung cấp chính trị, chuyên môn.
- HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể đạt xuất sắc, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh.
Đại hội bầu BCH và phân công:
Đồng chí: Hồ Văn Ánh, Bí thư
Đồng chí: Nguyễn Duy Thao, Phó Bí thư thường trực
Đồng chí: Cao Xuân Thắng, Phó Bí thư- Chủ tịch UBND.
Thực hiện nghị quyết Đại hội khóa XXVI, với nhiều khó khăn và thách thức, thời tiết thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân. Nhưng với tinh thần và quyết tâm tiến lên trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa xây dựng nông thôn. Đảng bộ và nhân dân giành được nhiều thành tựu.
Kinh tế tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm là 17,7% vượt so với chỉ tiêu đề ra 15-16%. Tổng giá trị sản xuất dự kiến năm 2010 là trên 152 tỷ đồng (chỉ tiêu đề ra 150 tỷ đồng), trong đó tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp là 38,79% giảm 1,81% so với năm 2005, tiểu thủ công nghiệp 25,9% và dịch vụ 35,31%. Bình quân thu nhập đầu người đạt 12,1 triệu đồng, tăng 7,25 triệu đồng so với năm 2005.
Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ, tạo lập 3 vụ sản xuất, áp dụng nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật theo hướng hàng hóa, đưa nhanh giống cây con có chất lượng cao vào sản xuất làm tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích. Năm 2010, tổng sản lượng lương thực đạt 3.750 tấn, giá trị sản xuất đạt gần 18 tỷ đồng.
Chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng công nghiệp. Tổng đàn trâu là 290 con, đàn bò 650 con, đàn lợn 12.008 con, trong đó lợn nái sinh sản 1.200 con, tăng 89%. Bình quân mỗi hộ có từ 4 - 5 con lợn, ước đạt 447 tấn, tăng 10,3%. Đàn hươu có 490 con, tăng 6%, đàn dê có 580 con, tăng 69%, gia cầm 30.000 con, tăng 18,6%. Tổng giá trị ước đạt là 41.206 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2005.
Đảng ủy đã chủ trương đưa 101 ha vào thâm canh nuôi tôm, tăng 57 ha so với năm 2005, năng suất đạt 4, 8 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 428 tấn.
Đất rừng từng bước giao cho các hộ khoanh nuôi quản lý, các mô hình trồng rừng, trồng cây ăn quả, các tổ hợp đã hình thành, đem lại thu nhập khá cho người dân. Việc bảo vệ và chống cháy rừng được đảm bảo.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ có tốc độ phát triển nhanh, xã có 19 công ty TNHH, được thành lập và hoạt động có hiệu quả; có 216 xe ô tô, 170 xe tải, 5 xe khách, 26 xe con, 15 máy xúc đào, thu hút được nhiều lực lượng lao động, tăng thu nhập cho nhân dân. Các tổ hợp, liên gia sản xuất ngành nghề thủ công khá phát triển như: chế biến vật liệu xây dựng, nghề mộc, thợ nề, sửa chữa công nghiệp...
Xây dựng cơ bản đạt khá, trong nhiệm kỳ đã tập trung xây dựng các công trình như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà máy nước sạch, hội trường thôn, bê tông hóa kênh mương, cầu cống... tổng mức vốn đầu tư là 15 tỷ đồng. Chất lượng các công trình được đảm bảo, đúng quy trình, quyết toán công khai, kịp thời, tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn.
Công tác văn hóa, thông tin, thể thao ngày càng phát triển và có chất lượng. Đẩy mạnh cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" và cuộc vận động "toàn dân tích cực rèn luyện thể thao theo gương Bác Hồ". Các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng được khơi dậy, hình thức phong phú, đa dạng. Quỳnh Xuân có 5/16 thôn đạt văn hóa, 4/5 trường học, trạm y tế đạt chuẩn văn hóa, 75% gia đình đạt văn hóa. Hệ thống truyền thanh được nâng cấp, thông tin đến 15/16 xóm, 100% hộ được dùng điện thắp sáng, 80% hộ dùng nước hợp vệ sinh, trong đó 50% hộ dùng nước máy.
Công tác giáo dục tiếp tục đạt được nhiều thành tựu về cả quy mô và chất lượng. Đảng ủy đã tăng cường sự lãnh đạo đối với giáo dục và đào tạo, chủ trương xã hội hóa giáo dục thể hiện rõ trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ, chính quyền, các cá nhân và tập thể, tạo được ý thức toàn dân chăm lo sự nghiệp giáo dục. Chất lượng giáo dục ngày được nâng lên, Trường tiểu học A, tiểu học B, THCS giữ vững đơn vị văn hóa, chuẩn quốc gia, các trường hàng năm đều được cấp trên xếp loại tiên tiến, xuất sắc. Trong nhiệm kỳ, số học sinh giỏi tỉnh, huyện, trường là 1.106 lượt em, trong đó giỏi cấp tỉnh 47 em, huyện 371 em, trường 688 em. Học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng 310 em.
Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân có những chuyển biến tốt. Đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế được củng cố từ xã đến thôn. Công tác tuyên truyền phòng và chữa bệnh cho nhân dân có những tiến bộ đáng kể. Đã triển khai thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng, phòng chống các loại bệnh xã hội. Các đoàn thể và nhà trường đã phối hợp với các xóm làm tốt công tác vệ sinh môi trường không để xẩy ra dịch bệnh. Ngành y tế nhiều năm liền đạt xuất sắc.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được quan tâm đúng mức. Các đoàn thể đề cao trách nhiệm tuyên truyền, vận động đối tượng trong độ tuổi thực hiện kế hoạch hóa gia đình, triển khai sâu rộng các hình thức lồng ghép truyền thông dân số tới địa bàn dân cư, góp phần nâng cao nhận thức của các đối tượng về các biện pháp phòng tránh thai, sinh đẻ có kế hoạch, vượt chỉ tiêu huyện giao. Nhờ đó, tỷ lệ phát triển dân số còn 16,5%o, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 26,9 %o. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 19%, giảm 7,1% so với năm 2005.
Mặc dù kinh tế còn không ít khó khăn, những việc thực hiện chính sách xã hội luôn được Đảng bộ, chính quyền quan tâm kịp thời, có hiệu quả. Trong nhiệm kỳ đã huy động được 215 triệu đồng quỹ tình nghĩa, 45 triệu đồng quỹ vì người nghèo. Xây dựng 4 nhà, sửa chữa 10 nhà tình nghĩa trị giá 110 triệu đồng, ủng hộ xây dựng một nhà đại đoàn kết, đảm bảo thực hiện kịp thời các chế độ của nhà nước, địa phương.
Quốc phòng - An ninh được Đảng ủy đặc biệt quan tâm, công tác tuyển quân, giao quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu. Các tổ tự quản ở thôn xóm, hoạt động có hiệu quả, đã giải quyết kịp thời mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Lực lượng quân sự, công an được tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng, giải quyết kịp thời các đơn thư, khiếu nại của công dân, không để vượt cấp.
Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng, luôn quan tâm công tác giáo dục giáo dục tư tưởng - chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Coi đó là sợi chỉ đỏ trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo và sự phát triển của địa phương. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, Đảng ủy đã tổ chức kịp thời các đợt học tập quán triệt đến tận các chi bộ, cán bộ, đảng viên, với tỷ lệ tham gia trên 90%. Thông qua các đợt học tập chính trị, tập huấn, bồi dưỡng... trình độ nhận thức, ý thức của đội ngũ, cán bộ đảng viên được phát huy. Tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, thể hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân được nâng lên. Thông qua đó, các chương trình hành động cụ thể đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống cũng được triển khai mạnh mẽ, tích cực và hiệu quả hơn.
Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy thường xuyên được đổi mới; giữ vững nguyên tắc tập thể lãnh đạo và phát huy vai trò cá nhân phụ trách. Duy trì nề nếp sinh hoạt từ Đảng bộ đến chi bộ theo Điều lệ Đảng, chú trọng nâng cao chất lượng chi bộ trong sạch vững mạnh. Năm 2009, 15 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh chiếm 75%, không có chi bộ yếu kém.
Mặt khác, Đảng ủy còn làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và bố trí cán bộ, đảm bảo khách quan, dân chủ công khai. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy đã cử đi đào tạo 16 đồng chí đại học, 6 đồng chí trung cấp chuyên môn, 6 đồng chí trung cấp và 21 đồng chí sơ cấp chính trị.
Công tác đảng viên được quan tâm, việc phân công nhiệm vụ đảng viên gắn với năng lực, trình độ, sức khỏe nên đã phát huy được tinh thần chủ động sáng tạo, chấp hành tốt quy định 19 điều đảng viên không được làm, đã xuất hiện nhiều gương người tốt, việc tốt là đảng viên. Trong 5 năm, tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 65%, hoàn thành nhiệm vụ 27%, kết nạp đảng 54 đồng chí.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cũng có nhiều chuyển biến tích cực trong việc đổi mới hoạt động, nâng cao vai trò của mình. Hằng năm, Hội đồng nhân dân xã đã thực hiện tốt kế hoạch định kỳ tiếp xúc cử tri, đi sát cơ sở nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, từng bước tháo gỡ khó khăn vướng mắc, cũng như ghi nhận, phản ánh những đề xuất, nguyện vọng của nhân dân đối với cấp ủy và chính quyền, góp phần nâng cao chất lượng các kỳ họp. Ủy ban nhân dân luôn đổi mới phương thức điều hành quản lý địa phương, cụ thể hóa Nghị quyết của cấp ủy Đảng và xây dựng quy chế hoạt động, làm tròn trách nhiệm của mình trong việc chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy theo yêu cầu mới. Sự phối hợp giữa chính quyền với mặt trận và các đoàn thể đã đồng bộ, hiệu quả hơn, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, sự thống nhất trong nội bộ được đảm bảo, phát huy được tinh thần, ý thức trách nhiệm và năng lực của cán bộ. Từ đó tạo nên được sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của cấp trên, hoàn thành mục tiêu kế hoạch do địa phương đề ra.
Mặt trận Tổ quốc từng bước được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và chủ trương của ngành cấp trên, củng cố tổ chức, tập hợp phát triển hội viên. Đã phối hợp hoạt động có hiệu quả với chính quyền và các tổ chức thành viên trong việc phát động phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Phong trào xây dựng nhà đại đoàn kết do Mặt trận Tổ quốc phát động đã đi vào cuộc sống, được toàn dân đồng tình ủng hộ. Vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương - giáo, tạo ra và tăng cường sự đồng thuận xã hội. Năm năm liền, quỳnh Xuân được huyện xếp loại đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đoàn thanh niên có nhiều đổi mới trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thu hút đông đảo đoàn viên tham gia, tỷ lệ tập hợp đoàn viên đạt 72%. Thực hiện tốt sự phối hợp với các tổ chức, ban, ngành, đẩy mạnh phong trào thanh niên tình nguyện, thanh niên lập nghiệp, phát triển kinh tế làm giàu chính đáng; tuổi trẻ phát huy truyền thống quê hương; tham gia tích cực các phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, văn nghệ, vệ sinh môi trường, chú trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo dục thiếu niên nhi đồng. Trong 5 năm, Đoàn thanh niên đã huy động được 500 triệu đồng giúp nhau phát triển kinh tế, sản xuất và đạt phong trào vững mạnh xuất sắc.
Hội Phụ nữ: (tỷ lệ tập hợp đạt 93%) đã xây dựng chương trình hành động của tổ chức mình, phối hợp với chính quyền các ban, ngành đoàn thể thực hiện tốt nhiệm vụ ở địa phương. Thực hiện tốt phong trào phụ nữ tích cực lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc với 6 chương trình của Hội. Tạo điều kiện cho hội viên vay vốn phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tổng số vốn trong 5 năm là 3,7 tỷ đồng cho 1300 lượt chị em vay. Ngoài việc chăm lo phát triển kinh tế, Hội tập trung chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo yêu cầu về số lượng và chất lượng. Năm năm liền, hội được xếp loại xuất sắc, được Trung ương Hội tặng bằng khen.
Hội Nông dân:  Thường xuyên được củng cố và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, tỷ lệ tập hợp 86,7%. Hội đã quan tâm công tác giáo dục tư tưởng, làm tốt công tác tuyên truyền; phối hợp chặt chẽ với UBND xã, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Trạm khuyến nông tổ chức các lớp tập huấn khoa học kỹ thuật cho hội viên, mạnh dạn dưa các giống cây - con mới vào sản xuất; góp phần tích cực vào việc nâng cao năng xuất cây trồng, đưa đời sống nông dân ngày một đi lên. Trong 5 năm Hội đã tạo điều kiện cho hội viên vay vốn phát triển kinh tế, tổng số vốn 2,7 tỷ đồng, cho 1600 lượt hội viên vay, giải quyết việc làm, nhân rộng các mô hình sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh... 5 năm được xếp loại vững mạnh.
Hội Cựu chiến binh: Với bản chất người lính cụ Hồ, luôn đi đầu trong các phong trào, nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của Hội và địa phương. Quan tâm công tác tập hợp hội viên vào tổ chức, tỷ lệ tập hợp 97%. Hội đã làm tốt công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua "cựu chiến binh gương mẫu", hội viên Hội Cựu chiến binh luôn tích cực đi đầu trong các phong trào của địa phương như: xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, động viên thăm hỏi nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn... tổ chức tốt, hiệu quả góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, chống các tệ nạn xã hội ở địa phương, 5 năm liền được xếp loại vững mạnh.
Tổ chức công đoàn luôn quan tâm, động viên đoàn viên lao động sản xuất, tổ chức phối hợp có hiệu quả với chính quyền, các đoàn thể, chăm lo bảo vệ quyền lợi của người lao động. Kịp thời thăm hỏi khi đoàn viên ốm đau, tạo điều kiện cho cán bộ công chức yên tâm công tác. Năm năm liền, Hội được xếp loại xuất sắc.
Các Hội quần chúng xã hội nghề nghiệp như: Hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội hưu trí, Hội thương binh... đã có nhiều hoạt động phong phú, sinh động, góp phần tích cực vào việc chăm lo những quyền lợi và nhu cầu chính đáng của hội viên, tập hợp động viên toàn thể nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương.
Qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng các cấp và của địa phương đề ra. Trên cơ sở xác định những khó khăn, vướng mắc, tồn tại của mình, Đảng bộ và nhân dân đã phát huy truyền thống cách mạng, đề ra những giải pháp thích hợp, động viên toàn Đảng, toàn dân phát huy lợi thế, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để phát triển và giành được nhiều thành tựu: cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, trong đó sản xuất nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa; chú trọng phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ. Trên cơ sở mở rộng sản xuất, đa dạng hóa các loại hình kinh tế, cơ sở hạ tầng: điện - đường - trường - trạm được quan tâm đầu tư đúng mức, tiếp tục giữ vững ký cương phép nước, các tệ nạn xã hội được đẩy lùi; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đảm bảo ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Thực hiện các hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên, từ ngày 16-18/4/2010, Đại hội, Đại biểu xã Quỳnh Xuân khóa XXVII, nhiệm kỳ 2010-2015 được diễn ra. Đại hội đã nghe báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XXVI và mục tiêu, phương hướng nhiệm kỳ  2010-1015.
Chủ đề Đại hội: Tiếp tục phát huy nội lực, tăng cường thu hút đầu tư, phát huy mọi tiềm năng lợi thế, tranh thủ sự hộ trợ của cấp trên để tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội, xây dựng củng cố quốc phòng, anh ninh vững chắc, xây dựng Quỳnh Xuân trở thành xã giàu mạnh, xây dựng nông thôn mới.
Các chỉ tiêu chính:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm: 15-16%.
Trong đó: Nông – lâm - ngư nghiệp tăng 8-10%.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, xây dựng tăng 18 - 19%, dịch vụ tăng 19 - 20%.
Cơ cấu kinh tế:
 Nông – lâm - ngư nghiệp 30%.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, xây dựng 31%, dịch vụ 39%.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2015: 20 - 21 triệu đồng/người/năm.
Giá trị sản xuất bình quân 64 triệu đồng/ha
Sản lượng lương thực năm 2015: 3.900 tấn
Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp 65%
Thu ngân sách tăng hàng năm12-13%
Tỷ lệ hộ gia đình văn hóa 85%, thôn văn hóa 70%.
Tỷ lệ giảm sinh hàng năm 1%o, tỷ lệ sinh con thứ 3 hàng năm giảm 1%.
Trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 còn 4-5%.
Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh năm 2015 trên 90%, 80% hộ có nhà vệ sinh hợp vệ sinh.
Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 77%.
Mỗi chi bộ mỗi năm kết nạp ít nhất mỗi đảng viên trở lên.
Trình độ chuyên môn của cán bộ chủ trì: 100% đại học, 100% trung cấp chính trị, 100% cán bộ chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên, trong đó 80% đại học và trung cấp chính trị.
Chính quyền, MTTQ và đoàn thể hàng năm xếp loại xuất sắc.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết đề ra, Đại hội đề ra các chương trình trọng tâm là:
1. Vận động học nghề để xây dựng một đến hai làng nghề.
2. Đảm bảo vệ sinh môi trường, xây dựng các công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
3. Tăng cường công tác phòng chống các tệ nạn xã hội.
4. Đầu tư thâm canh để có giá trị sản xuất bình quân từ 64 triệu/ha canh tác.
5. Tiếp tục củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vùng đặc thù.
Để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết, Đại hội nhấn mạnh: phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo, hướng về chi bộ, sâu sát thực tế, nắm bắt kịp thời và chỉ đạo quyết liệt để giải quyết có hiệu quả các vấn đề phát sinh từ cơ sở. Các chủ trương đề ra phải sát đúng, ngắn gọn súc tích, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Chú trọng công tác kiểm tra giám sát. Tăng cường sự phối hợp giữa Đảng ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện nghiêm túc chế độ giao ban, hội ý. Đồng thời phân công, phân nhiệm rõ ràng, cụ thể đối với các đơn vị, cá nhân, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu. Xây dựng mô hình điển hình, tiên tiến, tiến hành sơ, tổng kết nhân ra diện rộng. Giải quyết công việc phải quán triệt phương châm nói đi đôi với làm.
Thực hiện cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Bộ Chính trị phát động từ tháng 11/2006. Qua 4 năm triển khai thực hiện Đảng bộ đã làm tốt các khâu tổ chức tổ chức học tập, các chuyên đề, thảo luận, tổ chức lấy ý kiến của quần chúng góp ý cho tổ chức Đảng và đảng viên, viết thu hoạch, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, nhất là đã gắn nội dung học tập vào sinh hoạt ở chi bộ, cơ quan đơn vị và đã tổ chức được nhiều hoạt động "làm theo" như: chống lãng phí, chống quan, liêu tham nhũng, thực hành cải cách hành chính; gắn các nội dung của cuộc vận động với thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; đăng ký làm theo của từng cán bộ, đảng viên gắn với nhiệm vụ chính trị được giao. Đã tạo được sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của từng cán bộ, đảng viên, nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng được các phong trào, các điển hình tiên tiến ở các ngành, các chi bộ, trong Đảng và nhân dân, thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng các cấp, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành và phân công:
Đồng chí: Cao Xuân Thắng - Bí thư.
Đồng chí: Hồ Văn Ánh - Phó Bí thư thường trực
Đồng chí: Nguyễn Duy Thao - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa XXVII đặt ra rất nặng nề, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân phải nổ lực, đoàn kết, khắc phục khó khăn, phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương, sớm đưa Quỳnh Xuân thành một xã giàu mạnh, hoàn thành mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, thành lá cờ đầu trong toàn huyện, góp phần cùng nhân dân toàn huyện, cả nước "xây dựng Quỳnh Lưu trở thành huyện giàu và kiểu mẫu".
 PHẦN KẾT
       Qua bao thăng trầm biến đổi của lịch sử, nhiều lần thay đổi tên làng: Từ Vân Tụ...đến Song Quỳnh, Quỳnh Xuân, Quỳnh Tùng, Quỳnh Xuân, Phường Quỳnh Xuân. Trên mảnh đất này từ ngàn xưa đã có con người sinh sống, các thế hệ cha, ông đã đổ mồ hôi, xương máu, từng chung lưng đấu cật, chia ngọt xẻ bùi, khai thác đầm lầy, bãi hoang, cải tạo, thau chua rửa mặn, ngọt hóa đồng ruộng, từng bước tạo dựng làng xóm, yên vui
       Mỗi đoạn đường, khúc sông, ngõ xóm đã in đậm hình ảnh thân thương của ông, cha từng vật lộn, chống chọi với thiên nhiêm khắc nghiệt, đấu tranh sinh tử chống áp bức bóc lột, chống ngoại xâm để bảo vệ quê hương, đất nước.
       Trên mảnh đất có nhiều dòng họ, từ các nơi về đây sinh cơ lập nghiệp, xây dựng xóm làng ở ven sông, sườn núi, quanh năm lúc nhàn rỗi” vui chơi cùng cảnh, sơn, thủy hữu tình”.
       Qua nhiều thế hệ các dòng họ khác nhau, nhiều đời hay ít, tất cả đều gắn bó với nhau: “Lúc tối lửa, tắt đèn”, cùng nhau giữ gìn, bảo tồn, phát triển những giá trị vật chất và tinh thần mà các thế hệ ông cha đã để lại. Như một lẽ tự nhiên, mảnh đất bình dị như bao vùng quê khác, trở thành máu thịt. Họ là nông dân thuần nông quanh năm làm bạn với sương gío, ruộng đồng, hoặc là những anh học trò nghèo chuyên đèn sách, mơ một ngày gặp vận “Của Khổng, sân trình” rộng mở, trở thành ông Nghè, ông Cống làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Nghề nghiệp của họ tuy khác nhau, song các thế hệ con người nơi đây đều cùng chung một chí hướng là yêu quê hương, đất nước. Theo dòng chảy của lịch sử dựng nước và giữ nước vùng đất này đã sản sinh ra nhiều người con ưu tú cho dân tộc trên tất cả các lĩnh vực văn hóa – xã hội, tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử và luôn là niềm tự hào của các thế hệ người dân Quỳnh Xuân xưa và nay.
       Cuối thế kỷ XIX, Thực dân Pháp xâm lược đánh chiếm nước ta, phong trào Cần vương chống Pháp phát triển rầm rộ trên cả nước. Trên vùng đất Thanh – nghệ Tĩnh có cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng kéo dài nhiều năm, nhân dân Quỳnh Xuân nhiệt liệt hưởng ứng tham gia nghĩa quân chiến đấu nhằn giành lại non sông đất nước.
       Trước, trong và sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), nhiều thanh niên yêu nước đã hưởng ứng tham gia phong trào Đông du – Đông kinh nghĩa thục của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, gia nhập các tổ chức yêu nước với khát vọng giành lại giang sơn. Hoài bão lớn nhưng con đường di lại quá chênh vênh, rốt cuộc, đành phải ngận ngùi nhìn cảnh non sông chìm đắm trong những năm trường nô lệ, nhưng tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh cứu nước đó rất đáng trân trọng trong thời điểm tình thế lịch sử hết sức khó khăn. Trong bối cảnh lịch sử đó Nguyễn Aí Quốc lãnh tụ thiên tài của dân tộc đã xuất hiện, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin một cách chân chính, sáng tạo áp dụng vào điều kiện khách quan đối với một nước thuộc địa nửa phong kiến, Người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả công dân của nước Việt Nam họ hiểu một cách sâu sắc rằng: Chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện mới giải phóng cho họ thoát khỏi mỗi tủi nhục lầm than. Trong sự biến đổi kỳ diệu đó, ngày 14/11/1945, chi bộ Đảng Tùng Mai được thành lập, bí thư đầu tiên là đồng chí Hoàng Nguyên Nậm. Chi bộ đã lạnh đạo nhân dân xây dựng và củng cố chính quyền cùng như các đoàn thể, ổn định đời sống, chống đói nghèo lạc hậu, chống giặc ngoại xâm. Chi bộ đã vận động thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, không ngừng củng cố xay dựng chính quyền cũng như hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội. Trong những năm tháng có nhiều thử thách cam go, kinh nghiệm chưa nhiều, chính quyền còn non trẻ vai trò tiền phong của mỗi đảng viên trong chi bộ vẫn là trung tâm đoàn kết toàn dân và là nhân tố quyết định của sự nghiệp cách mạng trên quê hương. Tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, cán bộ , Đảng viên trong chi bộ thực sự phát huy vai trò trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước. Các đảng viên đã nêu cao phẩm chất đạo đức của người cộng sản, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, cùng toàn dân làm nên những kỳ tích trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, góp phần to lớn cùng cả dân tộc đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Xây dựng củng cố phát triển hậu phương, chi viện tối đa cho sự nghiệp giaỉ phóng dân tộc.
       Chi bộ đảng và nhân dân  hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của mình. Biết bao cán bộ đảng viên và nhân dân đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ không trở về trong niềm vui chiến thắng đó là những tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng trong cuộc trường chinh “3000 ngày không nghỉ”.
       Nhiều cán bộ đảng viên thời chống Pháp đã lần lượt ra đi theo qui luật tự nhiên, nhưng ý chí, nghị lực và tinh thần xả thân vì sự nghiệp cách mạng mãi mãi sáng ngời. Qua thực tiễn lạnh đạo, tổ chức xây dựng quê hương, vừa kháng chiến vừa kiến quốc (1945 - 1954), cán bộ, đảng viên đã rút ra nhiều bài học bổ ích:  Khi cán bộ, đảng viên và nhân dân cùng chung sức, chung lòng, chung ý chí thì mọi khó khăn thử thách đều có thể vượt qua. Cán bộ, đảng viên phải tận tụy gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào, phải biết hy sinh quyền lợi cá nhân để phục vụ cho cách mạng thì tổ chức đảng ngày càng vững mạnh, càng có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
       Hai mươi mốt năm đánh Mỹ và thắng Mỹ (1954 - 1975) là quãng thời gian lịch sử ghi nhận sức mạnh phi thường của toàn Đảng, toàn dân. Đây chính là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam ngời sáng hơn bao giờ hết. Trong hào khí chung của dân tộc, Đảng bộ và nhân dân  tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng của quê hương hoàn thành nhiệm vụ suất sắc.
       Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, nông dân bám ruộng đồng, rừng núi làm ra hạt thóc, củ khoai chi viện cho tiền tuyến. Dân quân du kích ngày đêm bám trận địa, đào hào, công sự kéo pháo, trực chiến bắn máy bay Mỹ...Đảng bộ và nhân dân rất đỗi tự hào là một trong những xã sớm được Nhà nước phong tặng phần thưởng cao quí “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
       Bốn mươi năm(1975 - 2015), Quỳnh Xuân cùng với cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là chặng đường toàn đảng, toàn dân đứng trước muôn vàn thách thức. Chính trong khó khăn gian khổ đó Đảng bộ và nhân dân đã tìm ra hướng đi phù hợp với đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đưa quê hương vượt qua khó khăn để tiến lên phía trước.
       Mặc dù qui mô công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn bước đầu có khởi sắc nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đó là phải đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó... những điểm đó cần khắc phục  để vươn lên hòan thành mục tiêu mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra. Bảy mươi năm Đảng bộ và nhân dân đã tạo nên những thay đổi kỳ diệu trên quê hương. Bao cán bộ, Đảng viên và thanh niên ưu tú đã ngã xuống trên mọi miền đất nước, chiến trường Lào, Căm phu chia, biên giới để có độc lập cho non sông đất nước. Bao cán bộ đảng viên đã và đang đem hết tài năng trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước. Con đường đi đến hiện đại, văn minh, dân chủ công bằng còn lắm vất vả gian lao, nhưng đảng bộ và nhân dân tiếp tục hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, quyết tâm đưa Phường trở thành điển hình của thị xã Hoàng Mai. Trang sử đang được viết tiếp cho nhiều thế hệ mai sau.
      
                                     
                                      PHẦN PHỤ LỤC
 
                         Bài vè xây dựng nhà ca vũ đền Xuân Hòa
                             Nay mừng vận hội thái hòa
                             Trong xem phong cảnh thật là vui thay
                             Đất ta nay sơn triều thủy tụ
                             Ở trước Huyền vũ long hội trùng phùng
                             Dân hộ một lòng làm nhà ca vũ
Năm Sửu chặt gỗ (1853), giáp dần (1854) khởi công
                             Làm qua ất mão (1855) mới xong
`                            Trung tuần lục nguyệt khởi công dựng đền
                             Hai hàng đứng dóng hai bên
                             Cờ đào ở giữa kéo lên ầm ầm
                             Làng trông thấy khen thầm to nhỏ
                             Ca Vũ ta rằng chẳng có đâu hơn
                             Trông tưng bừng chói chói màu sơn
                             Trông trước cửa lưỡng long triều nguyệt
                             Dòm hai bài triết có hai quạt rồng ngang
                             Thợ với làng cùng bình tâm vui vẻ
                             Trông lên phán kẻ, Phượng múa Loan quỳ
                             Ngẩm như đền ni, không đền nào hơn nữa
                             Trông ra trước cửa rực rỡ nghiêm Trang
                             Trông lên xà ngang, Phượng Long phun thủy
                              Khen cho hết ý mở rộng tấm lòng                         
                             Đã khen với làng có kẻ giúp công
                             Đã cấm quyền kiêm nghề ngói mộc
                             Dựng đền lên làng thưởng một chục
                             Quan cử tế thưởng công
                             Thưởng một giải khen gọi bằng nhà phú hữu
                             Con trai tân cựu, thưởng hai giaỉ cúc hoa
                             Ông Thược làng ta giàu ra phú qúy
                             Ông bà không nghỉ thưởng một giải điều
                             Của ít lòng nhiều cùng bình tâm với thợ
                             Hai ông Dám cử, thưởng hai giải song song
                             Đường thủy chung như huynh. đệ một lòng huê thắm
                             Làng ta rày chành chạnh đã lắm
                             Dựng đền lên cho phú, thọ, khang, vinh
                             Cho văn võ khâm mạng triều đình
                             Cho vàng ngọc lưu truyền vạn đại
                             (Bài này do ông Nguyễn Xuân Mậu phó chủ tịch phường cung cấp)
Vè dựng đền thờ Phùng Hưng
          Lục triều Minh Mệnh cửu niên                               Con ong này bướm mén
          Lập điện cầm quyền đổi sắc minh tân                    Khen ai khéo tiện
          Vua trách bức ân cần                                             Con cò mổ trai
          Ba châu này có một                                               Tiện chiếc thuyền chài
          Bốn huyện này có một                                           Chạy vào đi bắt
          Cốt đã nên cột                                                       Hỡi o (cô) đi nước
          Rường đã nên rường                                              Mà chưa có chồng
          Bốn cột tương đương                                   Giáp Đoài, giáp Đông mỗi ngày 7 ả    Ai trồng rường mà kê đấu                                 Đồng đoàn đi cả
          Các quan ra mẫu                                                   Mỗi ả hai triêng
          Mẫu chạm vị tứ linh                                              Mặt mũi hồng nhan
          Chạm bốn bề đền                                                  Thợ và quan phỉ trí
          Con rồng vàng khôn họa                                       Xã mất của không ngại
          Chạm một đôi long mã                                          Thợ gia công không nề
          Con Long mã phụ đồng                                         Xã vâng lệnh kinh kỳ
          Chạm đôi hạc nhà vua                                           Cho thơm danh nổi tiếng
          Chạm đôi bày chim chích                                      Đền làm 4 huyện
          Chạm đôi cuông cũng lịch                                     Đã vang lừng
          Chạm đôi sư tử cũng xinh                                      Xã mất của cũng ưng
          Chạm đôi hươu nhà Tần                              Thợ thêm công cũng đáng
          Chạn đôi đa bốn quyết                       Đền làm 4 tháng mới được thành công
          Đền làm da diết
          Đào, liễu, trúc, mai
          Chạm hết lầu đài
                   (Bài này do bác Nguyễn Văn Chính cán bộ tiền khởi nghĩa cung cấp)
 
 
Sự tích Ông Eo(1)
          Chiềng làng thượng hạ                                 Giổ ông Mục Đồng
          Nín lặng mà nghe                                        Trước nữa đớm ông
          Con bò, con me                                            Sau tru (trâu) bò béo tốt
          Bình yên thường lệ                                      Gạo hai bát
          Kính tế lễ thần                                             Tiền 20 đồng
          Một năm một lần                                         Chúng tôi đi họp
          Thường lễ tế Xuân                                       Từ bữa đã lâu
          Tam tuần như ngoại                                     Những ai ra đầu
          Trong nước                                                 Chúng tôi xin thưởng
          Thượng hạ dưới trên                                    Những ai cải cưởng
          Một lễ kỳ yên                                              Chúng tôi không nghe
          Tiền ra gạo góp                                           Đổi bò ra thuê
          Chúng tôi đi họp                                         Chúng tôi bất biết
          Từ bữa đã rày                                              Dẫu nhiều, dẫu ít
          Bước chân rao đây                                       Tiền bạc, lòng thành
          Nghe cho tường tỏ                                       Trước nữa kính thần
          Nhà giàu, nhà có                                          Sau bầy bò sức khỏe
          Ai ai cũng vầy                                             Bầy bò con trẻ
          Bò đực, bò cấy                                            Sức khỏe bình yên
          Mỗi con 24 đồng                                         Lễ bạc kim tiền
          Sắm ra cho sẵn                                            Kính thần, thần đãi
                                    (Bài này do bà Cao Thị Nhu cung cấp).
Bới khoai tháng Ba
          Trồng khoai tháng một                                Người khác thẳng đường
          Nắng suốt tháng ba                                      Ai ai cũng biết
          Dân xã bàn hòa                                           Nghĩ lại thảm thiết
          Câù mưa, cầu gió                                         Trời lại mơi mưa
          Mùa mười mất ló (lúa)                                 Dân xã cày bừa
          Mong lại mùa khoai                                    Vãi vừng dọn cạn
          Trời làm một mạch nắng dai                        Trách mẹ đi vạn
          Khoai sùng hết sạch                                     Ăn ở không tùy
          Làng Đoài lật đật                                         Của nả chuyền đi
          Lên bới kẻ Lau                                            Đem cho bà trợ thính
          Nghĩ trước, nghĩ sau                                    Lại ngồi, lại tính
          Đội tường đang để                                       Nhặt một đùm khoai
          Cho làng kẻ Vệ                                            Bới lên Mục Bài
          Đi hết rú, hết nhà                                         Bới về Tứ Lái
          Lên bới La Bà                                             Bới lại Đội Đền
          Đội Ao cũng bới                                          Bới ra sau Len
          Làng Đồng chờ đợi                                      Bới về Cồn Mả
          Nỏ để làm chi                                              Không sót lỗ mô
          Bới xuống Trùng Y                                     Hỏi được con ông Đồ
          Bới qua Cồn Mối                                         Tính là khôn lắm
          Khoai Rộc ăn nói                                         Về nhà cứ cắm
          Nỏ có củ mô                                                Rít rảy mụ da
          Năm ngoái một bồ                                       Mấy đời khoai bới tháng ba
          Năm ni một mủng
          Bới lên Đội Thung
          Bới lại Đội Trường
                                      (Bài này do bà Cao Thị Nhu cung cấp).
 
Gánh nước đêm hè
     Một ngày không đi thì nhớ, thì trông                 Hết đêm về tới giếng Đông
     Một đôi giếng Đồng                                         Vẫn chưa múc được
     Hai đôi Bà Nhân                                              Đi ao, về ước
     Xuống dưới ni ta đi cho gần                              Đi đợi, về chờ
     Chớ đi trên nớ mỏi chân, xa đường                   Về đến nhà, trời đã tờ mờ
     Thế nào thương được thì thương                       Ai về ngõ nấy
     Chớ đi dọc đường nghe kẻ dèm pha                  Ngẩn ngơ, buồn sầu
     Trời làm đại hạn như con cá khát khao              Về đến nhà, gà gáy đầu
     Ước gì một trậm nưa rào                                  Trầu ăn cau nồng, vôi lạt
     Nở ra tươi tốt                                                   Đôi ta rày như quạt dầm sương
     Anh đây bức sốt như con cá dưới hồ        Quạt dầm sương có người giang díu
     Trời nắng mãi từng mô                                     Đôi ta rày như điếu chạm ly
     Thương các dì từng nấy                                    Điếu chạm ly chưa xoi nỏ
     Em là con gấy (Gái)                                                   Đôi ta rày một ngõ mà ra
     Chân yếu tay mềm                                            Có mấy đời nắng mãi tháng ba
     Phải đi nước đêm
     Tội tình, khốn khổ
     Đi giếng Mới(1) tới giếng Cung
 
 
Bài vè về trận Pháp đổ bộ lên Quỳnh Lưu vào năm 1949
          Năm Kỷ Sửu
          Mùa Thu tháng Tám(2)
          Rạng mười tư (14)
          Chừng khoảng canh năm
          Trong xóm chòm
          Kẻ dậy, kẻ còn nằm
          Nghe tiếng súng ầm ầm ngoài cửa biển
          Hẳn quân địch đã sang cầu chiến
          Cướp ngoài khơi như mọi chuyến chi đây
          Ai ngờ đâu trời mới hồng tây
          Dưới biển bắn, trên tàu bay thốc
          Kẻng chòm đội liên thanh báo động
          Xuống hầm ngay ai cũng chờn gan
          Cơm nước chưa ăn, quần áo ướt mê man
          Đạn vèo vèo bay ngang càng dữ dội
          Mắc mưu địch đem lòng lừa dối
          Trời lóa lem còn tối như tan canh
          Vì quân ta canh gác vô tình
          Nên quân địch tấn công ba ngả
          Ngả Lạch Thơi lên làng Thuận Hóa
          Ngả Lạch Quèn lên xã Phú Sơn
          Ngả Thanh Lương gần biển Lạch Cờn
          Đi đường lận do việt gian thổ lộ(1)
          Trên đã có tàu bay yểm hộ
          Dưới quân Tây lố nhố theo sau
          Vào Kim Lung bóc lột áo quần nâu
          Cải trang giống như là bộ đội
          Đầu đội nón mang tơi gánh củi
          Giống đồng bào loan gọi tản cư
          Lúc đêm hôm nó mới thừa cơ
          Ta sấp ý không ngờ là giặc
          Đội 57 (đại đội súng mặt đất)với cùng chủ lực
          Gặp rừng thông cũng mắc lầm to
          Đến các bà, các mẹ cũng hoan hô
          Nấu cơm nước đem ra tiếp tế
          Xã đội bộ đang ngồi lẻ tẻ
          Giặc đến nơi hậu dễ ngồi yên
          Cũng chưa nghe tiếng trống nổi lên
          Và liên lạc thông tin chưa có …
          Ngước mắt lên thấy quần nâu mũi lõ
          Rõ mặt tây chẳng phải mơ hồ
          Gọi Việt gian nó xổ tiếng xì xồ
          Đùng đùng bắn dân mới hô nhau chạy
          Người luống cuống nào gồng, nào gánh
          Kẻ vội vàng tay xách, nách mang
          Bầu trẻ con đứa khóc, đứa van
          Trâu bò chạy cản đàng, cản sá
          Bỏ nhà đó chạy lấy người cái đã
          Chạy một mạch về ngả Sơn Lâm
          Cũng còn may trăng tỏ như rằm
          Chạy một mạch lăm xăm không sợ tối
          Giặc từng đoàn lên làng Tiên Đội
          Kéo từ Lung đên lộ đầu lèn
          Địch dần lên Tam Lễ, Quỳnh Yên
          Chạy khắp miền trang trại
          Ngồi giữa rừng chẳng kinh gì khái (hổ)
          Ở lâu ngày chỉ ngại hết lương
          Nào là mưa, là gió, là sương
          Nào nước độc mà vương phải ốm
          Tiếng súng nổ, lửa cháy nhà ghê gớm
          Trông về nhà nhấp nhỏm dạ không ngây
          Giặc vào đây chỉ ở một vài ngày
          Rồi lục tục rút ngay ra biển
NGUỒN GỐC CÁC DÒNG HỌ
TT Dòng họ Nguồn gốc số đời số hộ số khẩu Tộc trưởng ghi chú
1 Họ Đậu Đức Đại La - Hà nội 40 140 786 Đậu Đức Phồn làng Xuân Hòa
2 Họ Trần Đức Yên Thành - Nghệ An 31 25   Trần Đức Nguyên làngQuỳnh Tụ
3 Họ Lưu Văn Lưu Tư Công Liêm 30     Lưu Văn Long làng Xuân Hòa
4 Họ Lê Tiến Đông Sơn - Thanh Hóa 30 513 3005 Lê Tiến Nhụy làngQuỳnh Tụ
5 Họ Nguyễn Cảnh ĐôngTriều-Hải Dương 26 156 656 NguyễnCảnh Đảng làngQuỳnh Tụ
6 Họ Trần ThiênTrường-Nam Định
 
25 53 171 Trần Doãn Đức làng Quỳnh Tụ
7 Họ Nguyễn Đình Thanh Chương-
Nghệ An
23 800 4300 Nguyễn Đình Diện làngQuỳnh Tụ
8 Họ Lê Khắc Yên Định-Thanh Hóa 23 156 365 Lê Văn Đức làng Xuân Hòa
9 Họ Hồ Đình Thọ Thành-Yên Thành 22 80   Hồ Đình Thiện làng Xuân Hòa
10 Họ Nguyễn Văn Hải Dương vào Diễn Châu 21 90 220 Nguyễn Văn Thông làngQuỳnh Tụ
11 Họ Lê Hữu Nông Cống-Thanh Hóa 20 92 280 Lê Hữu Hảo làngQuỳnh Tụ
12 Họ Hồ Đình Thọ Thành-Yên Thành 19 34 120 Hồ Đình Vinh làng Xuân Hòa
13 Họ Đậu Huynh Tỉnh Sơn Tây 18 38 280 Đậu Văn Huynh làng Xuân Hòa
14 Họ Hồ Bá Thọ Thành-Yên Thành 17 76 380 Hồ Bá Khởi làng Xuân Hòa
15 Họ Hồ Trọng Thọ Thành - Yên Thành 17 45 188 Hồ Trọng Châu làngQuỳnh Tụ
16 Họ Hồ Sỹ Thọ Thành-Yên Thành 15 118 286 Hồ Sỹ Nhân làngQuỳnh Tụ
17 Họ Hồ Trọng Triết Giang-Trung Quốc 15 25 119 Hồ Trọng Ân làngQuỳnh Tụ
18 Họ Nguyễn Duy Thường Tín - Hà Tây 15 158 800 Nguyễn Duy Liên làngQuỳnh Tụ
19 Họ Hoàng Đình mất gia phả 15 8 49 Hoàng Đình Toán làng Xuân Hòa
20 Họ Cao Diễn Hoa - Diễn Châu 14     Cao Trọng Đức làngQuỳnh Tụ
21 Họ Trần Đức Nam Định 14 99 266 Trần Đức Phùng làngQuỳnh Tụ
22 Họ Lê Văn Thanh Hóa 14   66 Lê Văn Thìn làngQuỳnh Tụ
23 Họ Nguyễn Tố Hà Đông - Hà Nội 13 7 75 Nguyễn Chính Vinh làngQuỳnh Tụ
24 Họ NguyễnXuân Hà Tĩnh 12 15 53 Nguyễn Xuân Ích làngXuân Hòa
25 Họ Hồ Văn Thọ Thành-Yên Thành 12 40 155 Hồ Văn Hải làngXuân Hòa
26 Họ Đoàn Văn Hải Dương 12 43 210 Đoàn Văn Mạnh làngQuỳnh Tụ
27 Họ Nguyễn Công Can Lộc- Hà Tĩnh 12 145 1215 Nguyễn Công Thi làngQuỳnh Tụ
28 Họ Vũ Minh Hải Dương 11 60 274 Vũ Minh Diêu làngQuỳnh Tụ
29 Họ Văn Đức Hoàng Mai-Quỳnh Lưu 11 56 246 Văn Đức Chế làngQuỳnh Tụ
30 Họ Họ Trần Yên Thành-Nghệ An 11 27 92 Trần Đức Gia làng Xuân Hòa
31 Họ Lê Văn Nam Đàn-Nghệ An 11 131 660 Lê Văn Lương làngQuỳnh Tụ
32 Họ Phan Văn Yên Thành-Nghệ An 9 25 133 Phan Văn Đường làngQuỳnh Tụ
33 Họ Hồ Sỹ Quỳnh Đôi-Quỳnh Lưu 8 42 160 Hồ Sỹ Tùng làngQuỳnh Tụ
34 Họ Hồ Ngọc Tiến Thủy-Quỳnh Lưu 7 26 98 Hồ Ngọc Phương làngQuỳnh Tụ
35 Họ Dương   Quỳnh Đôi-Quỳnh Lưu 6 2 10 Dương Quốc Đảng làngQuỳnh Tụ
36 Họ Trần Quang tỉnh Đồng Nai 6 20 93 Trần Quang Bảo làngQuỳnh Tụ
37 Họ Họ Trần Quỳnh Phương-Quỳnh Lưu 5     Trần Nguyên Niên làng Xuân Hòa
38 Họ Vũ Văn Hải Dương       Vũ Văn Sâm làng Xuân Hòa
39 Họ Bùi Văn Diễn Châu – Nghệ An       Bùi Văn Công làng Xuân Hòa
 
     
      NHỮNG THÀNH TÍCH ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUỲNH XUÂN
ĐẠT ĐƯỢC
TT Năm Cấp, bộ tặng thưởng Thàng tích và hình thức khen thưởng
1 1973 Bộ tư lệnh quân khu IV Tặng cờ thi đua cho Ủy ban hành chính xã Quỳnh Xuân với dòng chữ “nặng nghĩa với miền Nam, tận tình với thương binh, xây dựng hậu phương mạnh”
2 1977 Huyện đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Quỳnh Lưu Tặng cờ cho đoàn xã Quỳnh Xuân, đơn vị khá nhất trên công trường cộng sản.
3 1978 UBND tỉnh Nghệ Tĩnh Tặng cờ đơn vị quyết thắng
4 1979 UBND tỉnh Nghệ Tĩnh Tặng cờ đơn vị quyết thắng
5 1982 Ban chấp hành Đảng bộ Nghệ Tĩnh Tặng cờ cho Đảng bộ vững mạnh
6 1982 UBND huyện Quỳnh Lưu Tặng cờ cho UBND xã Quỳnh Xuân đơn vị xuất sắc năm 1982
7 1983 Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu Tặng cờ cho Đảng bộ khá nhất năm 1983
8 1983 UBND huyện Quỳnh Lưu Đơn vị xuất sắc hoàn thành vượt mức huy động lương thực năm 1983
9 1983 UBND huyện Quỳnh Lưu Đơn vị xuất sắc trong sản xuất nông nghiệp 3 năm (1981 – 1983)
10 1983 UBND huyện Quỳnh Lưu Xã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu gửi tiền tiết kiệm năm 1983
11 1983 UBND huyện Quỳnh Lưu Xã dẫn đầu trong phong trào xây dựng ngân sách năm 1983 - 1984
12 1983 UBND huyện Quỳnh Lưu Hợp tác xã hoàn thành vượt mức huy động thực phẩm cho Nhà nước năm 1983
13 1983 BCH Đảng bộ Quỳnh Lưu Tặng ĐTNCS Hồ Chí Minh xã Quỳnh Xuân khá nhất năm 1983
14 1984 BCH Đảng bộ Quỳnh Lưu Tặng ĐTNCS Hồ Chí Minh xã Quỳnh Xuân khá nhất năm 1984
15 1985 UBND huyện Quỳnh Lưu Tặng đơn vị dẫn đầu về tài chính và ngân sách năm 1985
16 1986 UBND huyện Quỳnh Lưu Tặng đơn vị dẫn đầu về tài chính và ngân sách năm 1986
17 1987 BCHĐảng bộ tỉnh Nghệ Tĩnh Tặng cờ thi đua cho Đảng bộ vững mạnh năm 1987
18 1988 Bô tư lệnh quân khu IV Danh hiệu quyết thắng cho lực lượng dân quân xã Quỳnh Xuân (1989)
19 2000 Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam Tặng danh hiệu cao Qúi: “ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN”
20 2001-2003 Bộ Công An Tặng cờ thi đua phong trào “Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ Quốc” 3 năm liền (2001-2002-2003)
 
          Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Đồng chí: Nguyễn Đình Khoa, sinh năm 1940, đại tá, quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 5/1975 đến tháng 4/1979, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở chiến trường Tây Nam. Đồng chí đã đánh 22 trận, chỉ huy đơn vị đánh trúng hai sở chỉ huy trung đoàn địch, diệt và làm bị thương hàng trăm tên. Ngày 16/12/1977, đồng chí chỉ huy một biên đội bắn chính xác vào đội hình một trung đoàn địch càn quét vùng Bến Sỏi (Tây Ninh), diệt nhiều tên, bắn cháy nhiều xe, tạo điều kiện cho bộ binh ta đánh thiệt hại nặng trung đoàn này. Ngày 14/1/1978, mặc dù hỏa lực bắn lên rất mạnh, máy bay bị thương hai lần, đồng chí bình tĩnh cho máy bay lượn nhiều vòng và bắn trúng vào đội hình địch, sau đó hạ cánh an toàn. Ngày 4/12/1978, đồng chí chỉ huy một biên đội hiệp đồng chặt chẽ với máy bay A37 đánh vào các mục tiêu địch ở biên giới Hà Tiên phá hủy một sở chỉ huy trung đoàn, tạo điều kiện cho bộ binh diệt ba tiểu đoàn địch.
          Đồng chí được thưởng hai Huân chương Chiến công hạng Nhất, được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng LLVT - ND ngày 20/12/1979.
 
                                       Mẹ Việt Nam anh hùng:
                  
TT    Họ và tên Năm sinh Năm mất Ngày tháng năm công nhận Nơi ở
1 Nguyễn Thị Dư 1919 9/9/1979 24/4/1995, số 438, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký Khối 14
 
 
Danh sách Liệt sỹ phường Quỳnh Xuân
 
TT Họ và tên Năm sinh Ngày nhập ngũ Ngày hi sinh Khối
1 Nguyễn  Đình  Biên 1922 5/2/1948 5/10/1949 13
2 Dương  Trọng  Khởi 1914 9/6/1950 9/6/1950 9
3 Ngô  Lợi 1905   8/10/1951 5
4 Lê  Xuân  Phương 1917 1948 26/12/1950 12
5 Nguyễn  Cảnh  Huỳnh 1930 16/9/1949 7/1/1952 14
6 Nguyễn  Cảnh  Nghĩa 1930 29/4/1950 28/3/1952 9
7 Võ  Xuân  Sơn 1932   05/1952 2
8 Hồ  Sỹ  Vỵ   1951 1952 14
9 Lê  Khắc  Trám 1924 8/10/1951 18/10/ 1954 5
10 Trần  Thị  Miên     10/9/1965 9
11 Hồ  Thị  Lựu 1943 1963 10/9/1965 10
12 Lê  Thị  Ái 1948 1963 10/9/1965 11
13 Đoàn  Phú 1942 1960 10/9/1965 12
14 Hồ  Sỹ  Kiều 5/6/1942 1/2/1965 1/3/1966 12
15 Lê  Tiến  Hường 02/1946 05/1965 02/08/1966 6
16 Hồ Thị   Lai 1949 1966 25/4/1967 8
17 Đậu  Đức  Chiếm 1938 3/1965 11/11/1967 5
18 Nguyễn Trung  Tính 1932 1/1/1954 28/12/1967 6
19 Đậu  Văn  Thập 1960 1963 10/11/1968 4
20 Nguyễn  Đình  Bằng     06/02/1968 10
21 Lê  Xuân  Dục 1942 19/2/1965 25/2/1968 8
22 Đậu  Xuân  Tình 1947 3/1964 10/5/1968 15
23 Hồ  Trọng  Biền 1979 2/1968 18/8/1968 9
24 Nguyễn  Đình  Truy 1945 2/1965 7/9/1968 10
25 Vũ  Minhh  Hiển 1949 2/1968 23/3/1969 12
26 Võ  Xuân  Liễn 1945 28/12/1969   3
27 Đậu  Đức  Tân 1948 2/1968 15/10/1969 2
28 Vũ  Văn  Ry 1942 1/1970 4/7/1970 2
29 Văn  Đức  Định 1942 30/6/1967 10/6/1970 10
30 Nguyễn  Đình  Tình 1948 1968 19/8/1970 10
31 Lê  Hữu  Vượng 1949   8/12/1970 10
32 Đậu  Xuân  Nghi 1949 12/1967 13/01/1971 5
33 Hồ  Bá  Sách 1942 8/1961 27/4/1971 3
34 Nguyễn  Cảnh  Ưu 1942 2/1961 1/4/1972 13
35 Nguyễn  Xuân  Đức 1947 1971 15/4/1972 6
36 Hồ  Sỹ  Ninh 1949 8/1970 19/4/1972 11
37 Cao Trọng Thức 1952 1971 22/4/1972 10
38 Nguyễn  Đình  Văn 10/8/1938 15/5/1958 27/4/1972 9
39 Phan  Đình  Hạng 1952 1970 1/6/1972 11
40 Cao  Thuận  Thành 1953   11/7/1972 12
41 Nguyễn Duy  Nghệ 1950 1972 23/7/1972 13
42 Nguyễn  Duy  Hải 1951 25/8/1970 29/1/1973 9
43 Nguyễn  Đình  Tấn 1951 4/1972 6/4/1973 13
44 Vũ  Văn  Chế 1947 2/1965 6/6/1973 4
45 Cao Xuân  Tri 1920   12/7/1972 10
46 Nguyễn  Đình  Nhiễu 1956 8/1973 8/12/1974 11
47 Nguyễn  Cảnh  Thảo 1956   22/5/1978 14
48 Hồ  Sỹ  Hinh 1953 1976 22/6/1978 14
49 Hồ  Trọng  Ngân 1958 5/8/1976 31/7/1978 8
50 Nguyễn  Công  Minh 1957 8/1976 21/9/1978 15
51 Hồ  Trọng  Quang 1957 1976 2/10/1978 9
52 Nguyễn Đình Nhương 06/1/1951 1972 4/9/1979 12
53 Nguyễn Duy Phổ 1958 11/1978 1/1/1981 14
54 Lê  Văn  Thanh 1964 03/3/1963 9/3/1985 4
55 Vũ  Văn  Trữ 29/10/1957 1967 29/10/1987 6
56 Lê  Văn  Tài 10/3/1945 20/12/1967 16/7/1992 6
57   Nguyễn  Thị  Việng  1952   26-2-1972 9
 
       Tổng số thương bệnh binh là : - 63 người loại A
                                                           - 19 bệnh binh
        10 người bị hiễm chất độc hóa học
 
      
 
                     NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ TRƯỚC NĂM 1954        
Ngày 16/8/ 1945.
       Tại đình làng Đông, trước sự có mặt đông đủ lực lượng tự vệ (gọi là đội xung phát) và hàng nghìn dân chúng của các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, đồng chí Dương Ngọc Võ Huyện ủy viên, thay mặt Việt Minh Huyện đã tuyên bố xóa bỏ bộ máy chính quyền phong kiến tay sai.
        Ủy ban hành chính Cách mạng lâm thời được thành lập gồm:
                   Ông Lê Trứ,          Chủ tịch Ủy ban hành chính.
                   Ông Hồ Thức,       Phó Chủ tịch UBHC.
                   Ông Nguyễn Văn Chính , Trưởng ban giao thông kiêm trưởng thôn Quỳnh Tụ.
                    Ông Nguyễn Hào,          Ủy viên tư pháp.
                    Ông Lê Tiến Thiệng,      Ủy viên tuyên truyền.
        Ngày 14/11/1945, Huyện ủy Quỳnh Lưu quyết định thành lập chi bộ Tùng Mai(1).
Chi bộ Tùng Mai lúc mới thành lập gồm 4 đảng viên của xã Song Quỳnh, đồng chí Hoàng Nguyên Nậm làm Bí thư. Đây là tiền thân của tổ chức Đảng các xã Quỳnh Xuân, Quỳnh Văn, Quỳnh Tân hiện nay.
       Ngày 14/11/1946, Huyện ủy Quỳnh Lưu quyết định tách chi bộ Tùng Mai thành hai chi bộ:
Chi bộ Tùng Mai thuộc Xuân Liên do đồng chí Vũ Văn Thống làm Bí thư.
Đồng chí: Phạm Văn Đát Phó bí thư.
 Chi bộ Tùng Sơn thuộc Song Quỳnh do đồng chí Hoàng Nguyên Nậm làm Bí thư.
       Cuối năm 1946 – 1948.
          Các làng: Xuân Úc, Xuân Hòa, thôn Xuân An và xã Xuân Phương được sát nhập, thành lập xã Xuân Liên.
         Chính quyền được kiện toàn:
          Ông: Vũ Văn Thống - Chủ tịch
         Ông: Nguyễn Hành Thiện - Phó chủ tịch
          Ông: Hồ Đạt Cầu - Chủ nhiệm Việt Minh
          Ông: Lê Đăng - Bí thư, Đoàn thanh niên cứu cứu quốc (ĐTNCQ)
          Bà: Nguyễn Thị Lan - Bí thư phụ nữ cứu quốc
          Ông: Hồ Văn Thành - Xã đội
Ông: Hoàng Văn Triết - Chủ tịch nông dân cứu quốc
          Năm 1946 – 1948
          LàngVăn Mỹ - làng Quỳnh Tụ hợp nhất có tên là xã Song Quỳnh. (Riêng làng Quỳnh Tụ gồm có các giáp:Thượng- Đoài - Đông - Yên). Sau này giáp: Thượng- Đoài thuộc xã Quỳnh Văn. Gíap Đông – Yên thuộc xã Quỳnh Xuân.
        Ủy ban kháng chiến được thành lập, sau đó không lâu lại sát nhập với Ủy ban hành chính kháng chiến (UBKCHC), gọi là UBKCHC.
          Ông Nguyễn Văn Chính được bầu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Song Quỳnh.
       Ông Hồ Đạt Cầu - Phó Chủ tịch.
        Năm 1949 do yêu cầu của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ, cần tập trung lực lượng mạnh hơn. Theo chủ trương của trên, xã Song Quỳnh, Xuân Liên và một phần xã Nhật Tân (Quỳnh Bảng) nhập lại lấy tên là xã Quỳnh Xuân. Diện tích Quỳnh Xuân lúc bấy giờ có khoảng 5.000 héc ta. Hai chi bộ Tùng Mai và Tùng Sơn cũng được nhập lại thành Chi bộ Quỳnh Xuân.
  Đồng chí:Vũ Văn Thống - Bí thư.
   Phạm Xuân Đát - Phó Bí thư
       Công việc bàn giao phải tiến hành trong 6 tháng. Trong quá trình đó, lại phải chống giặc Pháp đổ bộ lên Quỳnh Lưu. Đến ngày 21/10/1949, Hội đồng nhân dân ba xã bầu ra Ủy ban hành chính kháng chiến xã Quỳnh Xuân gồm 7 ủy viên chính thức gồm các đồng chí:
       Đồng chí Vũ Văn Thống Huyện ủy viên - Chủ tịch.
       Đồng chí Hồ Hữu Phan - Phó Chủ tịch xã.
       Đồng chí Trần Chí Thành - Ủy viên Văn Phòng.
       Đồng chí Nguyễn Văn Đồng - Ủy viên Tài chính.
       Đồng chí Hồ Trọng Định - Ủy viên Tuyên truyền.
       Đồng chí Nguyễn Hành Thiện - Ủy viên dân sinh kinh tế.
       Đồng chí Hồ Văn Thành - Ủy viên quân sự.
       Do địa bàn rộng, lại có nhiều vùng khác nhau nên Ủy ban hành chính xã đã tổ chức một mạng lưới giúp việc về chuyên môn khá đông và có chất lượng.
       Khối Công an nội chính gồm: Trưởng ban đồng chí Nguyên Đình Tạn, giúp việc có đồng chí Nguyễn Đình Thống, Hoàng Quang Kỳ.
       Khối Văn phòng gồm: Trưởng ban đồng chí Đậu Văn Đình, và 5 chuyên môn:
       Đồng chí Hoàng Quang Đoan - Văn thư, kế toán.
       Đồng chí Hồ Đăng Thế - Văn phòng, tư pháp.
       Đồng chí Hồ Kim Anh, Hồ Văn Tế, Hồ Văn Áng (ấn loát Ly lô).
       Khối thông tin - văn hóa gồm: Trưởng ban Nguyễn Đình Qươn (Tân), các thành viên: Nguyễn Đình Phượng, Hồ Phi Tích.
       Bình dân học vụ gồm: Trưởng ban Hồ Hữu Toán, các thành viên Trần Thế Vinh, Hồ Văn Khoan.
       Về thủy lợi, canh nông:  Hồ Sỹ Toán.
       Xã đội: đồng chí Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Đình Khán.
       Xã đội phó- chính trị viên gồm các đồng chí: Hồ Văn Xơng, Hồ Khan, cán sự Hồ Sỹ Dung, .
       Các tổ chức chính trị xã hội cũng được kiện toàn, đi vào hoạt động sôi nổi, nề nếp và có hiệu quả.
        Mặt trận Liên Việt gồm các ông:
       Trần Thúy Doanh - Chủ tịch.
       Dương Ngọc Võ - Phó Chủ tịch.
       Hồ Kim Lân - Thư ký.
       Chấp ủy Việt Minh gồm các ông:
       Lê Tiến Việt - Bí thư.
       Hồ Văn Oanh - Phó Bí thư.
       Thái Văn Đào - Thư ký.
       Thanh niên cứu quốc: Bùi Văn Cư.
       Phụ nữ cứu quốc: Dương Thị Thỉnh.
       Nông dân cứu quốc: Thái Văn Đào.
       Việt Nam cứu quốc: Nguyễn Thế Đắc.
       Năm 1951.
       Các chức danh bí thư, trực đảng, chủ tịch phó chủ tịch không thay đổi, chỉ thay một số chức danh:
          Trần Thúy Doanh - Chủ nhiệm Việt Minh
          Bùi Cư - Bí thư đoàn TNCQ
          Dương Bá - Bí thư nông dân cứu quốc
       Năm 1952 – 5/1954.
           Năm 1952, Bí thư đồng chí: Đậu Quỳnh, năm 1953, đồng chí  thay Lê Tiến Việt. Trực đảng,
          Các thành viên chính quyền cũng có sự thay đổi
          Ông Nguyễn Liên, Chủ tịch, năm 1953, ông Nguyễn Văn Chính thay
          Ông Hồ Hữu Phan, Phó Chủ tịch, năm 1953, ông Nguyễn Liên thay
          Ông Trần Thúy Doanh, Chủ nhiệm Việt Minh, năm 1953, ông Vũ Văn Thống thay.
          Ông Bùi Văn Cư, Bí thư Thanh niên cứu quốc, năm 1953, ông Vũ Văn Trị thay
          Bà  Dương Thị Thỉnh, Bí thư PNCQ, năm 1953, bà Trần Thị Xang thay
          Ông Dương Bá, Chủ tịch NDCQ, năm 1953, ông Lê Hoàn thay
          Ngày 25/5/1954
       Xã Quỳnh Xuân được chia làm 3 xã: Quỳnh Tùng (là Quỳnh Xuân), Quỳnh Văn, Quỳnh Liên. Tên xã đã định, theo đó tài sản, địa giới cũng được hoạch định. Chi bộ, chính quyền, đoàn thể được thiết lập mang tên xã mới.
        Xã Quỳnh Tùng (bị mất con dấu nên được trên cấp dấu mới, mang tên xã Quỳnh Xuân).
          Đồng chí: Vũ Văn Tởn, Bí Thư
          Đồng chí: Nguyễn Đình Cường, Chủ tịch
 
`CÁC KỲ ĐẠI HỘI CỦA CHI BỘ, ĐẢNG BỘ QUỲNH XUÂN TỪ
                                       NĂM 1954 ĐẾN NAY (2015)
ĐẠI HỘI CHI BỘ LẦN THỨ I
          (5/1954 – 3/1955)
Đại hội toàn thể đảng viên. Đại hội thông qua các nội dung cơ bản: Tiến hành giảm tô, giảm tức; Bước đầu học tập Chủ trương Cải Cách ruộng đất. Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Vũ Văn Tởn, Bí thư
Đồng chí: Nguyễn Đình Cường, Chủ tịch
ĐẠI HỘI CHI BỘ LẦN THỨ II
          (3/1955 – 10/1956)
Nội dung chính của Đại hội: Tiến hành Cải Cách ruộng đất, thúc đẩy sản xuất, xây dựng nông thôn.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và phân công:
Đồng chí: Nguyễn Đình Phượng - Bí thư
Đồng chí: Vũ Vực - Chủ tịch
ĐẠI HỘI CHI BỘ LẦN THỨ III
          (10/1956 – 8/1957)
Nội dung chính của Đại hội: Học tập thư Bác Hồ gửi Đảng bộ Tỉnh Nghệ An,. Tiến hành sửa sai trong Cải Cách ruộng đất, minh oan cho cán bộ Đảng viên và quần chúng, trả lại quyền lợi chính trị - kinh tế cho người bị oan sai. Xây dựng khối đại đoàn kết trong dân cư.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Đình Phượng - Bí thư
Đồng chí: Hồ Trọng Quang - Chủ tịch
ĐẠI HỘI CHI BỘ LẦN THỨ IV
          ( 8/1957 – 12/1958)
Nội dung chính của Đại hội: Bước đầu học tập cách xây dựng tổ đổi công trong nông nghiệp. Phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn mới.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Sắc - Bí thư
Đồng chí: Hồ Trọng Quang - Chủ tịch
ĐẠI HỘI CHI BỘ LẦN THỨ V
          ( 12/1958 – 12/1959)
Nội dung chính của Đại hội: Học tập Điều lệ dự thảo về xây dựng HTXã, tiến tới xây dựng HTX bậc cao.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Sắc - Bí thư
Đồng chí: Hồ Trọng Quang - Chủ tịch
ĐẠI HỘI CHI BỘ LẦN THỨ VI
          ( 12/1959 – 3/1961)
Nội dung chính: Học tập Văn kiện Đại Hội, Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ III và kế hoạch phát triển kinh tế  - xã hội 5 năm lần thứ nhất. Tiếp tục xây dựng 3 ngọn cờ hồng: HTX nông nghiệp, HTX mua bán, HTX tín dụng.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Sắc - Bí thư
Đồng chí: Lê Hữu Hậu - Chủ tịch
Tháng 3 năm 1961, từ Chi bộ được nâng lên Đảng bộ.
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ XÃ QUỲNH XUÂN LẦN THỨ NHẤT
     (Tháng 3/1961 – 4/1962)
Nội dung: Tiến hành xây dựng HTX bậc cao, thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế – xã hội do Nghị quyết Đại Hội, Đại biểu Toàn Quốc lần thứ III đề ra.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Văn Chính - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Cảnh Trì - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ II
          (Tháng 4/1962 – 3/ 1963)
Nội dung: Tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, đưa 100% số hộ dân còn lại vào HTX, nhập HTX có qui mô vừa và lớn.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Văn Chính - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ III
          (Tháng 3/ 1963 – 5/1965)
Nội dung: Đẩy mạnh chương trình phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch 5 năm. Quán triệt tình hình, nhiệm vụ bảo vệ Miền Bắc. Xác định nhiệm vụ chi viện sức người, sức cúa cho cách mạng Miền Nam. Di chuyển, dời dân lên phía Tây của huyện.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Văn Chính - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Chủ tịch Hủy ban hành chính
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ IV
          (Tháng 5/1965– 3/1966)
Nội dung Đại hội: Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,bảo vệ Miền Bắc XHCN - Chi viện cho cách mạng miền Nam. Đảm bảo phòng gian, bảo mật, đảm bảo giao thông thông suốt... “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Bí thư Đảng bộ, kiêm chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ V
          (Tháng 3/1966 – 8/1968)
Nội dung: Khẳng định quyết tâm cùng với cả nước: “Đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Động viên con em lên đường đánh và thắng Mỹ. Tích cực củng cố hầm, hào bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Hiệng - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ VI
          (Tháng 8/1968 – 11/1969)
Nội dung Đại hội: Tập trung cải tạo đồng ruộng, tăng năng suất cây trồng, hiệu quả vật nuôi, làm tốt giao thông, động viên đội xe thồ hàng cho tiền tuyến vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Đậu Đức Thuyết - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ VII
          (Tháng11/1969 – 4/1971)
Nội dung Đại hội: Tranh thủ thời gian địch ngừng ném bom Miền Bắc, toàn đảng, toàn dân, tích cực hàn gắn giao thông, làm bờ vùng bờ thửa, đưa sản xuất phát triển.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Đậu Đức Thi - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ VIII
          (Tháng 4/1971- 9/1972)
Nội dung Đại hội: Đại hội quyết định, đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, đưa năng xuất lúa đạt 5 tấn/ ha. Củng có, kiện toàn trung đội trực chiến, sẵn sàng đánh trả máy bay Mỹ.
 Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Đình Phượng - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ IX
          (Tháng 9/1972 – 6/1973)
Nội dung Đại hội: Hàn gắn vết thương chiến tranh, củng cố xây dựng HTX, đẩy mạnh sản xuất. Đẩy mạng xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện tỉnh và cơ sở.
 Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và được phân công:
Đồng chí: Lê Hữu Hộ - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Chủ tịch
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ X
          (Tháng 9/1973 – 6/1974)
Nội dung Đại hội: Hàn gắn vết thương chiến tranh, củng cố xây dựng HTX, đẩy mạnh sản xuất. Đẩy mạng xây dựng cơ sở hạ tâng của huyện tỉnh và cơ sở.
 Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Vũ Minh Phiếm - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Quang - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XI
          (Tháng 6/1974 – 5/1975)
Nội dung Đại hội: Hàn gắn vết thương chiến tranh, củng cố xây dựng HTX, đẩy mạnh sản xuất. Đẩy mạng xây dựng cơ sở hạ tâng của huyện tỉnh và cơ sở. Chi viện tối đa cho cách mạng Miền Nam.
 Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Vũ Minh Phiếm - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Quang - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XII
          (Tháng 5/1975 – 5/1976)
Nội dung Đại hội: Đại hội mở ra trước sự kiện trong đại của dân tộc, Miền Nam Việt Nam hoàn toàn được giải phóng cả nước thống nhất, tiến lên xây dựng CNXH. Đại hội nhấn mạnh vấn đề hiện tại là đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng: Trường học, trạm xá...
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Vũ Minh Phiếm - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Quang - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XIII
          (Tháng 5/1976 - 1977)
Nội dung Đại hội: Đại hội diễn ra trong khí thế thi đua sôi nổi chào mừng bầu cử Quốc hội thống của nước Việt Nam,chào mừng Đại họi Đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Vinh dự Quỳnh Lưu là  một trong 5 huyện của Miền Bắc được chọn làm huyện điểm về tổ chức lại sản xuất và cải tiến kỹ thuật.
 Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Vũ Minh Phiếm - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Quang - Trực Đảng
          ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XIV
             (Tháng 1977 - 1978)
Nội dung Đại hội: Đại hội diễn ra trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn “lụt Bắc - lụt Nam”, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Nhưng những khó khăn đó không ngăn cản được ý chí phấn đấu vươn lên của đảng bộ, tiếp tục thực hiện các đề án mà huyện và đảng bộ đã đề ra.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Vũ Minh Phiếm - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Quang - Trực Đảng
          ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ  XV
Nhiệm kỳ 1978-1979:
 Khai mạc ngày 4-1-1978.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Vũ Minh Phiếm - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Quang, Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XVI
 Nhiệm kỳ 1979-1981
 Khai mạc ngày 20-4-1979.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và Ban thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Quang - Chủ tịch
Đồng chí Vũ Minh Miên - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XVII
Nhiệm kỳ 1981-1982
Khai mạc ngày 12-5-1981.
Đại hội đã bầu  ra Ban chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Quang - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Duy Thuận - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XVIII
Nhiệm kỳ 1982-1983
 Khai mạc ngày 17-10-1982
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Quang - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Dung - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XIX
Nhiệm kỳ 1983-1985
 Khai mạc ngày 27-9-1985
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Quang - Chủ tịch
Đồng chí: Nguyễn Đình Dung - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XX
 Nhiệm kỳ 1985-1988
 Khai mạc ngày 27-9-1985
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa -Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Quang - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Dung - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XXI
Nhiệm kỳ 1988-1991
 Khai mạc ngày 5-1-1988
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Trọng Nghĩa - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Võ Văn Biền - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Dung - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XXII
Nhiệm kỳ 1991-1994
 Khai mạc ngày 7-11-1991
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Cao Xuân Trí - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Đậu Đức Ninh - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Thu - Trực Đảng
Đồng chí Nguyễn Đình Dung - Trực Đảng (thay đ/c Thu từ 5/1992)   
 ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ  XXIII
 Nhiệm kỳ 1994-1996
 Khai mạc ngày 6-2-1994.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Đậu Đức Ninh - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Nguyễn Đình Thao - Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Đình Dung - Trực Đảng
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XXIV
Nhiệm kỳ 1996-2000
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Đậu Đức Ninh - Bí thư Đảng bộ, Chủ tịch HĐND.
Đồng chí: Nguyễn Đình Thao - Phó Bí thư- Chủ tịch UBND.
Đồng chí Nguyễn Đình Tề - Trực Đảng
Đồng chí Nguyễn Đình Tề - Bí thư Đảng bộ từ 8/1998 thay đồng chí Ninh
Đồng chí Hồ Văn Ánh - Trực Đảng từ 8/1998 thay đồng chí Tề
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ XXV
Nhiệm kỳ 2000-2005
 Khai mạc ngày 8-8-2000.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Nguyễn Đình Tề - Bí thư Đảng bộ, Chủ tịch HĐND
Đồng chí:, Hồ Văn Ánh -  Phó Bí thư, Chủ tịch UBND.
Đồng chí: Nguyễn Duy Thao - Phó Bí thư trực Đảng.
Đồng chí: Nguyễn Đình Thao - Chủ tịch MTTQ.
Đồng chí: Cao Xuân Thắng - Phó Chủ tịch UBND.
Đồng chí: Hồ Văn Ánh - Bí thư Đảng ủy từ 10/2003 thay đồng chí Tề.
Đồng chí Cao Xuân Thắng, Phó Bí thư - Chủ tịch UBND từ 10/2003 thay đồng chí Ánh.
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ  XXVI
Nhiệm kỳ 2005-2010
 Khai mạc ngày 5-8-2005.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Hồ Văn Ánh - Bí thư Đảng bộ
Đồng chí: Cao Xuân Thắng - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND
Đồng chí: Nguyễn Duy Thao - Phó Bí thư trực Đảng, Chủ tịch HĐND
Đồng chí: Vũ Văn Từ - Ủy viên BTV- Phó Chủ tịch UBND.
Đồng chí: Nguyễn Đình Thao - Ủy viên BTV, Chủ tịch MTTQ.
Đồng chí, Nguyễn Đình Thụ - Ủy viên BTV, Chủ tịch MTTQ từ tháng .2/2009 thay đồng chí Thao
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ LẦN THỨ  XXVII
Nhiệm kỳ 2010-2015
 Khai mạc ngày 17-4-2010.
Đại hội đã bầu  ra Ban Chấp hành và Ban Thường vụ được phân công:
Đồng chí: Cao Xuân Thắng - Bí thư Đảng bộ, Chủ tịch HĐND.
Đồng chí, Hồ Văn Ánh -  Phó Bí thư trực Đảng
Đồng chí:Nguyễn Duy Thao -  Phó Bí thư - Chủ tịch UBND
Đồng chí: Vũ Văn Từ - Ủy viên BTV, Phó Chủ tịch UBND.
Đồng chí: Nguyễn Đình Thụ - Ủy viên BTV, Chủ tịch MTTQ.
Đồng chí: Vũ Văn Từ - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND từ tháng 5/2014 thay đồng chí Nguyễn Duy Thao.
DANH SÁCH BÍ THƯ ĐẢNG BỘ QUA CÁC THỜI KỲ
 
 
TT Họ và tên Thời gian
1 Hoàng Nguyên Nậm 1945 - 1949
2 Vũ Đình Thống 1950 - 1951
3 Phạm Văn Đái 1952  
4 Vũ Văn Toàn 1953
5 Vũ Văn Tởn 1954 - 1955
6 Nguyễn Đình Phượng 1955 - 1957
7 Lê Sắc 1957 - 1961
8 Nguyễn Văn Chính 1961 - 1964
9 Lê Hữu Hộ 1965 - 1970
10 Nguyễn Đình Phượng 1971 - 1972
11 Lê Hữu Hộ 1972-1973
12 Hồ Trọng Nghĩa 1973 - 1991
13 Cao Xuân Trí 1991 - 1993
14 Đậu Đức Ninh 1994 - 1998
15 Nguyễn Đình Tề 1998 - 2003
16 Hồ Văn Ánh 2004 - 2010
17 Cao Xuân Thắng 2010 - nay
 
DANH SÁCH PHÓ BÍ THƯ, TRỰC ĐẢNG QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ và tên Thời gian
1 Đậu Đức Thi 1967 - 1970
2 Hồ Trọng Nghĩa 1/1970-1972
3 Vũ Văn Đỉnh 1972-1973
4 Vũ Văn Đỉnh 1973 - 1974
5 Nguyễn Đình Quang 1974 - 1979
6 Vũ Minh Miên 1979 - 1981
7 Nguyễn Duy Thuận 1981 - 1983
8 Nguyễn Đình Dung 1983 - 1989
9 Nguyễn Đình Thu 1989 - 1992
10 Nguyễn Đình Dung 1992 - 1994
11 Nguyễn Đình Tề 1994 - 1998
12 Hồ Văn Ánh 1998 - 2000
13 Nguyễn Duy Thao 2000 - 2010
14 Hồ Văn Ánh 2010- đến nay
 
DANH SÁCH THƯ KÝ – CHỦ TỊCH -  PHÓ CHỦ TỊCH HĐND QUA CÁC THỜI KỲ         
Thời gian Chủ tịch Thư ký Và Phó Chủ tịch
1985 - 1994     Nguyễn Đình Dung (Thư ký)
1994 - 1999 Đậu Đức Ninh Lê Tiến Diện
1999 - 2003 Nguyễn Đình Tề Nguyễn Đình Thao
2003 - 2004 Hồ Văn Ánh Nguyễn Đình Thao
2004 - 2010 Nguyễn Duy Thao Nguyễn Cảnh Trứ
2010 -  đến nay Cao Xuân Thắng Nguyễn Cảnh Trứ
 
DANH SÁCH CHỦ TỊCH QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ và tên Thời gian  
1 Lê Trứ 8/1945  
2 Hồ Hữu Phan 1946  
3 Nguyễn Văn Chính 1947 - 1949  
4 Vũ Văn Thống 1949 - 1950  
5 Nguyễn Văn Chính 1951 - 1952  
6 Đậu Liên 1952 - 1954  
7 Nguyễn Đình Cường 4/1954 - 1955  
8 Vũ Vực 1955 - 1957  
9 Hồ Trọng Quang 1957 - 1958  
10 Lê Hữu Hậu 1959 - 1960  
11 Nguyễn Cảnh Trì 1960 - 1961  
12 Lê Hữu Hộ 1962 - 1965  
13 Nguyễn Đình Hiệng 1965 - 1967  
14 Đậu Đức Thuyết 1967 - 1969  
15 Đậu Đức Thi 1969 - 1970  
16 Lê Hữu Hộ 1971 - 1972  
17 Hồ Trọng Nghĩa 1972-1073  
18 Vũ Minh Phiếm 1973 – 1979  
19 Nguyễn Đình Quang 1979 - 1987  
20 Vũ Văn Biền 1987 - 1989  
21 Đậu Đức Ninh 1989 - 1993  
22 Nguyễn ĐìnhThao 1993 - 1999  
23 Hô Văn Ánh 1999 - 2003  
24 Cao Xuân Thắng 2004 - 2010  
25 Nguyễn Duy Thao 2010 - 2013  
26 Vũ Văn Từ 2014 đến nay  
 
DANH SÁCH PHÓ CHỦ TỊCH QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ và tên Thời gian  
1 Nguyễn Đình Tựu 1957-1960  
2 Lê Văn Tề 1961-1965  
3 Đậu Đức Điềm 1965- 1966  
4 Vũ Văn Quang 1966 -1967  
5 Hồ Thị Kỳ 1967 -1968  
6 Nguyễn Thị Mỹ 1969 -1970  
7 Vũ Minh Phiếm 1971 -1973  
8 Nguyễn Thế Vinh 1973- 1975  
9 Nguyễn Duy Thuận 1975 -1981  
10 Đậu Đức Bang 1981 -1989  
11 NguyễnĐìnhThao 1989- 1993  
12 Nguyễn Đình Tề 1993- 1994  
13 Đậu Xuân Quỳnh 1994 -1999  
14 Cao Xuân Thắng 1999-2004  
15 Vũ Văn Từ
Nguyễn Xuân Mậu
2004 -2013  
16 Nguyễn Xuân Mậu Nguyễn Đình Hanh 2013 – nay
2014 - nay
 
 
DANH SÁCH CHỦ TỊCH UBMT TQ QUA CÁC THỜI KỲ
TT Họ và tên Thời gian
1 Vũ Thởi 1944-1950 (thư ký Mặt trận Liên Việt)
2 Nguyễn Thế Vinh 1975-1977
3 Nguyễn Văn Chính 1977-1980    
4 Nguyễn Đình Hiệng 1980-1985
5 Văn Đức Quýnh 1985-1990
6 Đậu Đức Thi 1990 - 1991
7 Nguyễn Đình Dung
NguyễnCôngNhiệm
Nửa năm 1991
1991-1999
8 Nguyễn Đình Thao 1999-2008
9 Nguyễn Đình Thụ 2008-nay
 
 
DANH SÁCH BÍ THƯ ĐOÀN TNCS HCM QUA CÁC THỜI KỲ
TT Họ và tên Thời gian
1 Hồ Trọng Quang 1953 - 1954
2 Hồ Bá Thịnh 1954 -1955
3 Lê Hậu 1955 - 1956
4 Hồ Bá Thịnh 1956 - 1958
5 Hồ Trọng Nghĩa 1958 - 1959
6 Nguyễn Cảnh Nghĩa 1959 - 1962
7 Hồ Xuân Đính 1963 - 1965
8 Đậu Đức Thi 1965 - 1966
9 Lê Văn Huề 1966 - 1971
10 Trần Đức Nghi            1971
11 Nguyễn Đình Thu 1971 - 1972
12 Vũ Minh Thanh 1972 - 1973
13 Trần Đức Truyền 1973 - 1975
14 Nguyễn Đình Thu 1975 - 1976
15 Vũ Minh Miên 1977 - 1978
16 Nguyễn Đình Dung     1979 – 7/1982
17 Cao Xuân Thắng            8/1982
18 Nguyễn Đình Thao 1982 - 1987
19 Cao Xuân Thắng 1987 - 1990
20 Nguyễn Duy Thao 1991 - 1997
21 Hoàng Quang Vinh 1997 - 2004
22 Trần Đức Khanh 2004 - 2006
23 Nguyễn Thị Xuân 2006 - nay
 
          DANH SÁCH BÍ THƯ – CHỦ TỊCH HỘI LHPN QUA CÁC THỜI KỲ
         
TT Họ và tên Chức vụ Nhiệm kỳ
1 Trần Thị Xăng Bí thư 1950 - 1954
2 Hồ Thị Duệ Bí thư 1954 – 1957
3 Cao Thị Sinh Bí thư 1957 - 1960
4 Nguyễn Thị Quý Bí thư 1960 – 1962
5 Cao Thị Sinh Bí thư 1962 – 1965
6 Nguyễn Thị Vân Bí thư 1965 – 1967
7 Cao Thị Sinh Bí thư 1967 - 1971
8 Vũ Thị Nhạ Bí thư 1971 – 1973
9 Hồ Thị Xuân Bí thư 1973 - 1974
10 Nguyễn Thị Vân Chủ tịch 1974 - 1994
11 Lê Thị Dạng Chủ tịch 1994 - 2000
12 Nguyễn Thị Oanh Chủ tịch 2000 – đến nay
         
DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI NÔNG DÂN QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ tên Thời gian
1 Vũ Vinh Diêu 1983-1990
2 Nguyễn Đình Dung 1990-1993
3 Hồ VănVinh (Quyền Chủ tịch 1993)
4 Lê Tiến Diện 1994-1997
5 Nguyễn Cảnh Trứ 1997-1999
6 Đậu Xuân Quỳnh 1999-nay
 
DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI CỰU CHIẾN BINH QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ tên Thời gian
1 Nguyễn Công Nhiệm 1990-1993
2 Võ Trường Khoát 1994- 2000
3 Vũ Thanh Nhuận 2001- nay
 
DANH SÁCH XÃ ĐỘI TRƯỞNG QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ và tên Thời kỳ
1  Nguyễn Cảnh Quỳ 1949 - 1956
2  Lê Văn Thu 1956 - 1958
3 Nguyễn Đình Thiều 1958 - 1961
4 Nguyễn Đình Quang 1961 - 1962
5 Phan Văn Lược 1963 - 1970
6 Hồ Sỹ Đức 1970 - 1972
7 LêVăn Huề 1972 - 1973
8 Nguyễn Đình Xảo 1974 - 1977
9 Hồ Lai Vọng 7/1978 – 6/1981
10 Nguyễn Công Dụ 7/1981 - 1982
11 Lê Văn Tâm 7/1982 – 6/1985
12 Đậu Đức Ninh 6/1985 – 10/1989
13 Đậu Đức Bang 11/1989 – 3/1999
14 Nguyễn Cảnh Trứ 4/1999 – 4/2004
16 Nguyễn Đình Hanh 7/2006 - nay
 
DANH SÁCH TRƯỞNG CÔNG AN QUA CÁC THỜI KỲ
 
TT Họ và tên Thời kỳ
1 Nguyễn Thế Vinh 1973 - 1975
2 Nguyễn Duy Thuận 1975 - 1980
3 Đậu Đức Bang 1980 - 1989
4 Nguyễn Đình Tề 1989 - 1994
5 Đậu Xuân Quỳnh 1994 - 1999
6 Cao Xuân Thắng 1999 - 2003
7 Vũ Văn Từ 2003 - 2004
8 Nguyễn Công Huyên 2004 – 2013
9 Phạm Đình Võ 2013 – đến nay
 
DANH SÁCH CHỦ NHIỆM HTX, QUA CÁC THỜI KỲ
 
Thời gian Tên hợp tác xã Chủ nhiệm
 9/1959-9/1960: HTX Ninh Xuân Nguyễn Cảnh Huân 
9/1959-9/1960: HTX Thái Thượng:                  Nguyễn Cảnh Trì
9/1959-9/1960: HTX Đại Hùng: Nguyễn Văn Chính
9/1959-9/1960: HTX Đại Sơn Nguyễn Cảnh Quỳ
9/1960-9/1961 HTX Ninh Xuân:             NguyễnCảnh Huân
9/1960-9/1961 HTX Thái Thượng:                   Nguyễn Cảnh Nghĩa
9/1960-9/1961 HTX Đại Hùng:                         Nguyễn Văn Chính
9/1960-9/1961 HTX Đại Sơn                            Lê Hữu Hộ
9/1962-9/1963  HTX Ninh Xuân:   Nguyễn Cảnh Huân
9/1962-9/1963 HTX Thái Thượng: NguyễnCảnhNghĩa
9/1962-9/1963 HTX Đại Hùng Đậu Đức Thuyết
9/1962-9/1963 HTX Đại Sơn Nguyễn Công Bằng
9/1963-9/1965
 
HTX Đại Thắng (Thái Thượng + Ninh Xuân)           Lê Tiến Lạn
9/1963-9/1965
 
HTX Đại Thành (Đại Hùng  + Đại Sơn)  Vũ Minh Diêu
9/1965-9/1968
 
Nhập 2 HTX Đại Thành, HTX Đại Thắng thành HTX Đại Liên  
Hồ Trọng Nghĩa
 
9/1968-9/1970: HTX Đại Liên Nguyễn Cảnh Nghĩa
9/1971-9/1973: HTX Đại Liên Đậu Đức Thuyết
1973 - 1974 HTX Đại Liên Nguyễn Đình Hiệng
1974-1975 HTX Đại Liên Đậu Đức Thi
1975-1979 HTX Đại Liên (Toàn xã) Đậu Đức Thi
 
1979 - 1981 HTX Đại Liên (Toàn xã) Nguuyễn Đình Hiệng
1981 -1987 HTX Đại Liên (Toàn xã) Võ Biền
1987 - 1989 HTX Đại Liên (Toàn xã) Cao Xuân Trí
1989 chia tách thành 2 HTX, Đại Liên và Đại Xuân HTX Đại Liên Cao Xuân Trí
1991- 1997 HTX Đại Liên Nguyễn Cảnh Trứ
     
1997 - 2000 HTX Đại Liên Hồ Trọng Vệ
2000 - 2005 HTX Đại Liên Hồ Trọng Vệ
2005 - 2009 HTX Đại Liên Lê Hữu Kiên
2009 – nay (2015) HTX Đại Liên Lê Hữu Kiên
1989 -1991 HTX Đại Xuân Trần Nguyên Quờn
1991- 1993 HTX Đại Xuân Võ Văn Biền
1993 – 1998 HTX Đại Xuân Hồ Văn Ánh
1998 – 2003 HTX Đại Xuân Vũ  Văn Từ
2003 – 2009 HTX Đại Xuân Đậu Đức Nghinh
2009 - đến nay HTX Đại Xuân Đậu Đức Nhung
         
 
 
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP LÀNG XUÂN HÒA
       (Ông Đậu Đức Công cung cấp, ông Nguyễn Đình Dung ghi )
Thời gian HTX Chủ nhiệm
7/ 1959- 7/1961 HTX Độc Lập Đậu Đức Phi
7/1959 –7/ 1961 HTX Quang Hoa           Nguyễn Đình Tường
7/ 1959 –7/1961 HTX Tiến Bộ                 Hoàng Văn Toán
8/1961 – 7/1963
 
Nhập HTX Độc Lập, Quang Hoa, Tiến Bộ thành HTX Đại Đồng Hồ Bá Lãu
 
8/1963 – 7/1965 HTX Đại Đồng Đậu Đức Điềm
8/1965- 7/1966 HTX Đại Đồng Vũ Văn Mỹ
8/1966 – 7/1967 HTX Đại Đồng Vũ Văn Cầu
8/1967 – 10/1971 Nhập HTX Đại Đồng, HTX Đại Lợi (Xuân An) thành HTX Đại Xuân Võ Văn Biền
 
11/1971 – 5/1972 HTX Đại Xuân Nguyễn Đình Qúy
5/1972 – 10/1973 HTX Đại Xuân Đậu Đức Công
11/1973- 1975 HTX Đại Xuân Võ Văn Biền
                            
CHỦ NHIỆM HTX MUA BÁN
       HTX mua bán được thành lập năm 1960 ( Vũ minh Diêu cung cấp, Nguyễn Đình Dung ghi )
Thời gian Chủ nhiệm
 1960 – 1964  Nguyễn  Đình Hương   
1965 – 1968  Hồ Trọng Quang
1968 – 1972  Nguyễn Công Bằng
1973 – 1981 Vũ Minh Diêu
1982 - 1986 Đậu Đức Thi
1987 – Đến lúc giải thể Vũ Văn Lợi
 
          HTX TÍN DỤNG
       Từ 1960-1975: Nguyễn Duy Cảnh, Chủ nhiệm
       Từ 1976-1980: Nguyễn Duy Cảnh, Chủ nhiệm
       Từ 1981-1986: Nguyễn Đình Hậu, Chủ nhiệm
       Từ 1986-1988: Nguyễn Đình Tân, Chủ nhiệm
       Giải thể năm 1988.
 
       QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN
Quỹ tín dụng nhân dân Quỳnh Xuân chính thức thành lập ngày 21/04/1996, Đại hội được tổ chức bầu các chức danh gồm 4 đồng chí:
          1. Nguyễn Đình Thao, Chủ tịch HĐQT (bán chuyên trách).
          2. Võ Xuân Tưởng, Phó Chủ tịch HĐQT, giám đốc điều hành.
          Năm 1998, Đại hội lần thứ II  bầu các chức danh gồm các đồng chí:
          1. Nguyễn Đình Thao, Chủ tịch HĐQT bán chuyên trách.
          2. Võ Xuân Tưởng, Phó Chủ tịch HĐQT chuyên trách.
          Tháng 7/2001, Đại hội lần III bầu HĐQT, gồm:
          1. Nguyễn Đình Thao, Chủ tịch HĐQT bán chuyên trách.
          2. Võ Xuân Tưởng, Phó Chủ tịch HĐQT chuyên trách, kiêm giám đốc điều hành.
          Tháng 11/2004, Đại hội lần thứ IV bầu các chức danh gồm:
           1. Đậu Văn Thuần, Chủ tịch HĐQT.
          2. Võ Xuân Tưởng, Thành viên HĐQT kiêm giám đốc điều hành..
          Tháng 3/2013, Đại hội lần thứ V bầu các chức danh gồm:
           1. Đậu Văn Thuần, Chủ tịch HĐQT.
          2. Nguyễn Đình Hợi Thành viên HĐQT kiêm giám đốc điều hành.
          Những thành tích nổi bật:
          Nhiều năm liền Quỹ tín dụng nhân dân xã được UBND tỉnh, Ngân hàng nhà nước tỉnh Nghệ An, UBND huyện, xã tặng giấy khen, bằng khen, cờ luân lưu. Được Quỹ tín dụng TW cấp chứng chỉ là thành viên QTD TW ngày 01/05/2005.
          Nhiều cá nhân được Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam, UBND tỉnh, huyện, NHNN chi nhánh Nghệ An tặng bằng khen, giấy khen.
 
DANH SÁCH ĐẢNG VIÊN ĐƯỢC TẶNG VÀ TRUY TẶNG HUY HIỆU ĐẢNG
 (Đồng chí Hồ Văn Bình – Đảng ủy viên, Văn phòng Đảng ủy cung cấp)
 
Số TT Họ Tên Huy hiệu Năm sinh Ngày vào Đảng Chính thức Ghi chú
  1.  
Hoàng Đình Toán 65 19-3-1919 30-3-1948 30-6-1949 Đã chết
  1.  
Nguyễn Duy Cảnh 65 02-6-1922 27-9-1949 05-8-1950  
  1.  
Trần Đức Gia 65 9-6-1928 12-12-1949 12-4-1950  
  1.  
Nguyễn Văn Chính 60 13-8-1914 15-6-1946 12-2-1947 Đã chết
  1.  
Hồ Trọng Quang 60 25-8-1924 14-2-1948 8-2-1949 Đã chết
  1.  
Cao Trọng Chu 60 5-5-1912 10-12-1949 28-2-1950 Đã chết
  1.  
Nguyễn Đình Chu 60 5-5-1915 22-9-1950 1-5-1951 Đã chết
  1.  
Vũ Văn Liên 55 10-10-1935 15-4-1960 14-4-1961  
  1.  
Nguyễn Công Bằng 50 19-7-1921 13-4-1948 15-12-1948 Đã chết
  1.  
Cao Trọng Lai 50 3-3-1928 9-3-1949 31-8-1949 Đã chết
  1.  
Nguyễn Công Nho 50 18-5-1917 19-5-1949 20-9-1949 Đã chết
  1.  
Hồ Bá Đại 50 10-10-1926 12-12-1949 12-4-1950 Đã chết
  1.  
Hồ Văn Nậu 50 8-10-1932 14-12-1961 20-12-1962 Đã chết
  1.  
Nguyễn Đình Quang 50 15-10-1935 15-3-1961 15-3-1962  
  1.  
 Nguyễn Đình Linh 50 20-12-1937 12-2-1961 1-3-1962  
  1.  
Nguyễn Cảnh Nghĩa 50 5-10-1936 4-2-1961 5-3-1962 Đã chết
  1.  
Nguyễn Đình Hậu 50 3-8-1936 15-8-1962 10-8-1963  
  1.  
Đậu Đức Tiệc 50 20-8-1932 25-5-1963 18-3-1964  
  1.  
Hồ Xuân Đính 50 12-9-1939 12-5-1963 12-5-1964  
  1.  
Vũ Minh Diêu 50 11-11-1943 12-5-1963 24-8-1964  
  1.  
Hồ Trọng Thảo 50 1-5-1936 3-3-1965 3-12-1966  
  1.  
Lê Xuân Hành 50 2/2/1940 19/1/1965 29.11.1965  
  1.  
Hoàng Minh Quyết 50 19-6-1944 8-3-1965 28-2-1966  
  1.  
Hồ Sỹ Hạnh 50 24-4-1940 24-4-1965 24-4-1966  
  1.  
Trần Đức Nghi 50 14-5-1940 20-2-1965 20-8-1966  
  1.  
Võ Văn Tởn 40 25-12-1917 30-3-1948 30-6-1948 Đã chết
  1.  
Nguyễn Đình Tửu 40 6-6-1927 1-1-1948 1-4-1948 Đã chết
  1.  
Nguyễn Công Tánh 40 16-4-1926 11-11-1955 1-7-1956 Đã chết
  1.  
Hồ Trọng Nghĩa 40 20-7-1932 13-3-1960 13-3-1961 Đã chết
  1.  
Nguyễn Thế Vinh 40 15-2-1927 8-6-1960 21-1-1961 Đã chết
  1.  
Đậu Đức Thuyết 40 12-3-1924 4-2-1961 4-2-1962 Đã chết
  1.  
Nguyễn Cảnh Phát 40 15-5-1946 28-1-1969 28-10-1969  
  1.  
Nguyễn Cảnh Tình 40 17-6-1932 20-1-1962 3-2-1963 Đã chết
  1.  
Nguyễn Đình Xảo 40 10-10-1933 12-6-1963 24-8-1964 Đã chết
  1.  
Nguyễn Công Nhiệm 40 15-1-1943 16-9-1966 16-6-1967  
  1.  
Nguyễn Đình Quý 40 15-9-1937 11-11-66 11-8-1967  
  1.  
Đậu Văn Thuấn 40 27-8-1937 13-10-1966 25-12-1967 Đã chết
  1.  
Nguyễn Thị Vân 40 10-5-1943 27-12-1966 27-12-1967  
  1.  
Lê Tiến Trình 40 01-5-1940 27-12-1966 25-1-1968  
  1.  
Đậu Đức Công 40 3-5-1932 25-9-1967 2-9-1968  
  1.  
Hồ Lai Vọng 40 15-8-1940 31-8-1967 31-8-1968 Đã chết
  1.  
Văn Đức Quýnh 40 28-6-1945 2-7-1967 2-7-1968  
  1.  
Nguyễn Đình Nhiệm 40 20-2-1947 20-7-1967 30-8-1968  
  1.  
Nguyễn Đình Sáu 40 15-7-1947 25-7-1967 26-7-1968  
  1.  
Nguyễn Đình Lưu 40 14/7/1941 3-2-1967 20.4.1968  
  1.  
Võ Trường Khoát 40 21/11/1947 19/1/1967 19/1/1968  
  1.  
Nguyễn Công Thư 40 6-11-1940 9-4-1967 9-4-1968  
  1.  
Trần Thị Nho 40 20-10-1942 3-2-1967 3-2-1968  
  1.  
Lê Hữu Tý 40 5-2-1934 7-8-1967 1-5- 1968  
  1.  
Lê Hữu Vi 40 22-11-1927 14-11-1967 20-10-1968  
  1.  
Nguyễn Đình Đắc 40 08-12-1946 14-11-1967 14-11-1968  
  1.  
Hồ Thị Lan 40 13-3-1949 16-12-1967 16-12-1968  
  1.  
Trần Đức Truyền 40 6/12/1950 20/11/1968 20-11-1969  
  1.  
Phan Văn Điệng 40 14/9/1947 05/03/1968 13/03/1969  
  1.  
Lê Tiến Khả 40 8-8-1942 8-8-1968 8-5-1969  
  1.  
Võ Minh Qươn 40 30-9-1945 30-10-1968 30-10-1969  
  1.  
Trần Đức Sứ 40 7-7-1947 19-1-1968 19-1- 1969  
  1.  
Vũ Thị Nhạ 40 12-8-1947 22-11-1968 22-11-1969  
  1.  
Trần Quang Hòa 40 22-12-1941 20-1-1968 20-1-1969 Đã chết
  1.  
Võ Văn Tri 40 15-12-1927 3-10-1968 9-3-1969  
  1.  
Nguyễn Thị Thới 40 5-10-1946 20-11-1968 20-11-1969  
  1.  
Võ Trung Tuyến 40 20-10-1947 23-11-1969 23-11-1970  
  1.  
Nguyễn Duy Thuận 40 26-8-1941 25-11-1969 25-8-1970 Đã chết
  1.  
Nguyễn Cảnh Phú 40 12-12-1948 23-1-1969 22-4-1970  
  1.  
Cao Thị Thoại 40 26-12-1949 11-7-1969 15-7-1970  
  1.  
Hồ Thị Xuân 40 20-2-1949 1-7-1969 1-7-1970  
  1.  
Nguyễn Đình Bình 40 12-5-1944 20-5-1969 20-5-1970 Đã chết
  1.  
Lê Tiến Miện 40 15-4-1950 26-9-1970 26-9-1971  
  1.  
Lê Văn Thành 40 22-8-1944 25-5-1971 25-5-1972  
  1.  
Nguyễn Đình Long 40 12-7-1950 30-9-1972 30-6-1973  
  1.  
Lê Tiến Hoàng 40 16/12/1951 25/1/1973 25/10/1973  
  1.  
Trần Đức Huyên 40 14-8-1950 1-6-1973 1-3-1974  
  1.  
NguyễnĐìnhNghiệm 40 10-2-1946 17-5-1973 17-5-1974 Đã chết
  1.  
Lê Tiến Diện 40 15-8-1951 1-4-1973 1-4-1974  
  1.  
Hồ Trọng Lập 40 14-8-1942 5-4-1973 5-4-1974  
  1.  
Hồ Thị Chưu 40 27-1-1904 26-6-1949 3-10-1950 Truy tặng
  1.  
Đinh Quốc Ngọ 40 02.2.1950 4/3/1974 4.3.1975  
  1.  
Nguyễn Thị Nhung 40 17/10/1951 27/09/1974 06/07/1975  
  1.  
Lê Thị Dạng 40 9-9-1952 24-8-1974 27-3-1976  
  1.  
Võ Thanh Đạm 40 15-3-1950 24-5-1974 24-5-1975  
  1.  
Vũ Văn Lợi 40 9-3-1953 18-12-1974 20-12-1975  
  1.  
Nguyễn Công Dụ 30 10-3-1937 27-12-1966 25-1-1968 Truy tặng
  1.  
Trần Đức Tràng 30 10-12-1940 14-6-1968 14-3-1969 Truy tặng
  1.  
Đậu Đức Thi 30 26-8-1942 4-6-1964 10-6-1965 Truy tặng
  1.  
Vũ Văn Thởi 30 4-1912 3-9-1948 3-2-1949 Truy tặng
  1.  
Nguyễn Đình Hiệng 30 12-10-1937 26-1-1960 4-3-1961 Truy tặng
  1.  
Văn Đức Khính 30 19-4-1914 19-2-1949 9-3-1950 Truy tặng
  1.  
Đậu Văn Hoạch 30 5-2-1925 18-2-1966 19-3-1967 Truy tặng
  1.  
Vũ Văn Điển 30 17-12-1942 18-5-1968 18-2-1969 Truy tặng
  1.  
Lê Văn Tề 30 6-12-1924 23-12-1961 26-4-1963 Truy tặng
  1.  
Vũ Văn Dong 30 12-9-1905 4-8-1948 1-10-1949 Truy tặng
  1.  
Nguyễn Cảnh Huân 30 10-4-1925 5-3-1949 15-4-1950 Truy tặng
  1.  
Nguyễn Duy Cừ 30 29-3-1948 12-6-1975 12-11-1976  
  1.  
Nguyễn Thị Tiến 30 25/11/1954 23-2-1976 27-11-1977  
  1.  
Nguyễn Đình Tưởng 30 5-6-1953 17-6-1976 17-3-1977  
  1.  
Đậu Đức Ninh 30 15-9-1951 9-6-1976 9-6-1977  
  1.  
Nguyễn Đình Tích 30 25-3-1953 3-1-1978 1-5-1979  
  1.  
Nguyễn Duy Xuyên 30 02-4-1950 22-1-1976 22-1-1977  
  1.  
Hồ Trọng Quỳnh 30 3-2-1951 1-1-1978 1-5-1979  
  1.  
Cao Trọng Xuân 30 12-4-1944 30-10-1972 30-10 -1973 Đã chết
  1.  
Trần Đức Phùng 30 11-4-1951 10-3-1977 10-3-1978 Đã chết
  1.  
Nguyễn Xuân Trinh 30 23-8-1940 6-3-1977 21-3-1978  
  1.  
Nguyễn Đình Dung 30 20-10-49 4-6-77 4-6-78  
  1.  
Đậu Xuân Huynh 30 02-5-1953 12-3-1979 12-3-1980  
  1.  
Phan Đình Đạo 30 10-10-1956 30-11-1978 30-5-1980  
  1.  
Nguyễn Thị Trị 30 8-4-1953 16-1-1979 6-7-1980  
  1.  
Nguyễn Công Sinh 30 1-9-1958 8-6-1979 15-12- 1980 Đã chết
  1.  
Hồ Sỹ Vượng 30 23-3-1954 29-12-1978 29-12-1979  
  1.  
Nguyễn Đình Thư 30 21-4-1951 8-6-1979 12-11-1980  
  1.  
Vũ Xuân Diệu 30 14-10-1956 19-1-1980 19-1-1981 Đã chết
  1.  
Lê Khắc Đài 30 11-2-1956 4-7-1979 4-1-1981  
  1.  
Vũ Xuân Miến 30 5-9-1950 15-11-1979 15-5-1981  
  1.  
Lê Khắc Trung 30 02-9-1949 3-11-1979 3-5-1981  
  1.  
Thái Thị Hảo 30 7.4.1953 21.2. 1980 21.12.1981  
  1.  
Nguyễn Duy Đờng 30 2-2-1954 3-2-1980 3-2-1981  
  1.  
Lê Tiến Tịch 30 12-4-1954 22-9-1979 22-3-1981  
  1.  
Trần Quang Nhậm 30 22-6-1952 6-3-1980 6-3-1981  
  1.  
Nguyễn Đình Chắt 30 20-6-1957 19-12-1979 19-6-1981  
  1.  
Hồ Văn Ánh 30 01-9-1957 4-3-1980 4-9-1981  
  1.  
Vũ Văn Nhi 30 2-4-1955 12-1-1980 12-6-1981  
  1.  
Lê Thị Vân 30 14-3-1960 16-11-1979 10-7-1981  
  1.  
Nguyễn Đình Thao 30 8-6-1959 5-3-1980 5-9-1981  
  1.  
Hồ Trọng Dung 30 22-6-1944 23-5-1980 27-6-1981 Đã chết
  1.  
Lê Tiến Xước 30 12-12-1957 22-12-1979 22-6-1981  
  1.  
Vũ Thanh Nhuận 30 26-3-1960 9-11-1980 9-5-1982  
  1.  
Lê Bá Hòe 30 3-9-1955 31-1-1981 31-7-1983  
  1.  
Lê Khắc Lịch 30 03-2-1950 14-11-1981 14-11-1982  
  1.  
Trần Nguyên Qườn 30 20-11-1954 23-1-1981 23-7-1983  
  1.  
Nguyễn Duy Môn 30 23/8/1946 2/6/1981 2/6/1982  
  1.  
Nguyễn Công Tá 30 20/6/1952 12/10/1981 12-10-1982  
  1.  
Nguyễn Ngọc Thực 30 16-11-1949 2-6-1981 2-6-1982  
  1.  
Nguyễn Đình Hồng 30 21-1-1950 14-11-1981 14-11-1982  
  1.  
Trần Đức Mậu 30 3-10-1957 1-2-1981 1-2-1982  
  1.  
Hồ Khắc Trực 30 10-10-1959 12-8-1981 12-3.- 1983  
  1.  
Nguyễn Cảnh Doạt 30 15-9-1959 22-1-1981 22-1-1982  
  1.  
Nguyễn Thị Hoa 30 13-9-1957 1-12-1981 1-6-1983  
  1.  
Nguyễn Công Huyên 30 26-11-1961 1-12-1981 1-6-1983  
  1.  
Cao Xuân Thắng 30 21-6-1961 13-4-1982 13-4-1983  
  1.  
Vũ Văn Từ 30 7-5-1961 29-4-1982 29-10-1983  
  1.  
Trần Quốc Từ 30 12-12-1957 20-4-1982 20-1-1983  
  1.  
Đinh Xuân Thắm 30 10-6-1957 15-12-1981 15-6-1982  
  1.  
Đậu Xuân Quỳnh 30 20-01-1956 10-8-1983 10-8-1984  
  1.  
Nguyễn Đình Tân 30 4-12-1963 27-1-1984 16-11-1984  
  1.  
Nguyễn Công Thành 30 1-12-1958 19-5-1984 19-5-1985  
  1.  
Hồ Xuân Thiên 30 2-6-1960 2-8-1984 2-2-1986  
  1.  
Nguyễn Cảnh Phổ 30 27-6-1962 12-7-1984 15-1-1986  
  1.  
Đậu Đức Thuần 30 5-4-1962 14-6-1984 14-12-1985  
  1.  
Võ Đức Tượng 30 10-5-1958 10-6-1984 30-12-1985  
      
          DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ĐỖ TIẾN SĨ – THẠC SĨ  
                                                (1954 – 2010)
TT Họ và tên Năm sinh Tiến sỹ Thạc sỹ
1 Vũ Nhất Trí 1953 Tiến sỹ khoa học  
2 Hồ Văn Hương 1979   Thạc sỹ
3 Hoàng Thị Xuân 1979   Thạc sỹ
4 Nguyễn Công Hà 1975   Thạc sỹ
5 Hồ Đình Sinh 1981   Thạc sỹ
6 Nguyễn Đình Tạo 1974   Thạc sỹ
7 Hồ Đình Cương 1981   Thạc sỹ
8 Nguyễn Đình Nam 1980   Thạc sỹ
9 Hồ Văn Nam 1971   Thạc sỹ
10 Nguyễn Đình Thư 1980   Thạc sỹ
11 Cao Trọng Nam     Thạc sỹ
12 Nguyễn Duy Khả     Thạc sỹ
13 Hồ Sĩ Đồng     Thạc sỹ
14 Nguyễn Văn Hiến     Thạc sỹ
15 Lê Tiến Hào     Thạc sỹ
16 Vũ Thị Tâm     Thạc sỹ
17 Lê Hữu Sơn     Thạc sỹ
                                                Người cung cấp Hoàng Quang Vinh
                  
          DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI TRƯỞNG - PHÓ PHÒNG CẤP
HUYỆN TRỞ LÊN
                  
TT           Họ và tên Chức vụ - nơi công tác
1 Nguyễn Duy Môn  Ủy viên BTV Huyện ủy Quỳnh Lưu- Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Quỳnh Lưu,  Nghỉ hưu
2 Hoàng Minh Quyết Ủy viên BCH  Huyện ủy Quỳnh Lưu - Phó Chủ tịch HĐND huyện Quỳnh Lưu,  Nghỉ hưu
3 Cao Xuân Trí Ủy viên BCH Huyện ủy - Phó Chủ tịch UBND huyện Quỳnh Lưu (đã mất)
4 Đậu Huy Liên Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội Huyện Quỳnh Lưu (đã mất)
5 Nguyễn Đình Tề Ủy viên BTV Thị Ủy Hoàng Mai - Trưởng Ban dân vận Thị ủy Hoàng Mai
6 Nguyễn Duy Thao Ủy viên BCH Thị ủy Hoàng Mai – Phó Chủ Tịch HĐND thị xã Hoàng Mai
7 Đậu Huy Long Trưởng phòng tư pháp huyện Kỳ sơn, Nghỉ hưu
8 Hồ Sỹ Tùng Chánh Văn phòng UBND Thị xã Hoàng Mai
9 Đặng Văn Tân Phó Chủ tịch MTTQ Thị xã Hoàng Mai
10 Hồ Văn Nam Ủy viên Ban thường vụ, Trưởng Ban tuyên giáo Huyện ủy Nghi Lộc.
                  
                   DANH SÁCH SỸ QUAN QUÂN ĐỘI – CÔNG AN
                    Tính từ thiếu tá trở lên đến tháng 12 năm 2014
      
TT Họ và tên Cấp bậc – nơi công tác
1 Nguyễn Đình Khoa Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – nghỉ hưu
2 Nguyễn Công Tá Đại tá – Thầy thuốc ưu tú – nghỉ hưu
3 Hồ Sỹ Vượng Thượng tá - Trường tổng cục hậu cần – QĐND Việt Nam, nghỉ hưu
4 Trần Đức Tiến Trung tá - nghỉ hưu
5 Vũ Văn Đạm Trung tá - nghỉ hưu
6 Lê Tiến Vân Thiếu tá - nghỉ hưu
7 Nguyễn Công Vỵ Trung tá -Trưởng ban quân y, tỉnh đội tỉnh Quảng Bình
8 Hồ Xuân Đính Thiếu tá - Bí thư Đảng ủy trung đoàn, nghỉ hưu
9 Nguyễn Công Nhiệm Thiếu tá - nghỉ hưu
10 Vũ Văn Lượng Trung tá - Tiểu đoàn trưởng công binh QK4, nghỉ hưu
11 Hồ Sỹ Kiên Thiếu tá - Trưởng Ban doanh trại Bộ CHQS tỉnh Quảng trị.
 
      
       LỊCH SỬ TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ THCS QUỲNH XUÂN
          Quá trình hình thành và phát triển:
          - Trường cấp II Quỳnh Xuân được thành lập vào năm học 1965-1966 tại thôn 8 ngày nay. Lúc mới thành lập trường chỉ có 1 lớp 5 (nay là lớp 6), với khoảng 50 học sinh (học sinh Quỳnh Xuân và Quỳnh Kim) do thầy giáo Nguyễn Ngọc Túc ở Mai Hùng làm Hiệu trưởng.
          - Năm 1967, trường cấp II Quỳnh Xuân sát nhập với trường cấp II Quỳnh Văn lấy tên là Trường cấp II Văn - Xuân do thầy Lê Văn Khánh làm Hiệu trưởng.
          - Năm học 1972-1973, trường được tái lập trên cơ sở tách ra từ trường cấp 2 Văn Xuân với tổng số 6 lớp, 252 học sinh và 12 cán bộ giáo viên.
          - Năm học 1978-1979, trường cấp I, II nhập thành trường phổ thông cơ sở Quỳnh Xuân với tổng số 25 lớp, 980 học sinh và 30 cán bộ giáo viên.
          - Năm học 1989-1990,  trường phổ thông Quỳnh Xuân lại tách ra thành 2 trường:
          + Trường cấp I, do thầy Đậu Đức Huy (Quỳnh Văn) - Hiệu trưởng.
          + Trường cấp II, do cô Nguyễn Thị Trị - Hiệu trưởng.
          - Năm học 2000-2001, trường cấp 2 được đổi thành trường THCS Quỳnh Xuân cho đến nay.
                             Hiệu trưởng, qua các thời kỳ:
         
Năm học Tên trường Hiệu trưởng
1959-1960 Trường cấp I Quỳnh Tùng Hồ Cảnh Thu (Quỳnh Đôi)
1960-1962 Trường cấp I Quỳnh Tùng Hồ Văn Đại (Quỳnh Bảng)
1962-1965 Trường cấp I Lê Hữu Oánh (Quỳnh Hậu)
1965-1966 Trường cấp II Quỳnh Xuân Nguyễn Ngọc Túc (Mai Hùng)
1966-1973 Trường cấp II Văn- Xuân Lê Văn Khánh (huyện Thanh Chương)
1972-1973 Trường cấp II Quỳnh Xuân Nguyễn Trọng Xướng (huyện Yên Thành)
1973-1978 Trường cấp II Quỳnh Xuân Đậu Huy Thuân (Quỳnh Thiện)
1978-1980 Trường THCS Quỳnh Xuân
(Cấp 1-2)
Lê Văn Bường (Quỳnh Yên)
1980-1985 Trường THCS Quỳnh Xuân
(Cấp 1-2)
Lê Tiến Quyền (Quỳnh Văn)
1985-1987 Trường THCS Quỳnh Xuân Nguyễn Thị Trị (Quỳnh Thiện)
1987-1989 Trường THCS Quỳnh Xuân Nguyễn Thị Trị (Quỳnh Thiện)
1989-2005 Trường THCS Quỳnh Xuân Nguyễn Thị Trị (Quỳnh Thiện)
2005-2007 Trường THCS Quỳnh Xuân Nguyễn Thị Trị (Quỳnh Thiện)
2008-nay Trường THCS Quỳnh Xuân Đinh Xuân Thắm (tỉnh Hà Tĩnh)
 
Những thành tích đạt được:
          Từ khi thành lập đến nay, Trường đã có hàng trăm học sinh giỏi các cấp, nhiều cán bộ giáo viên đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua và giáo viên dạy giỏi các cấp, nhiều học sinh trưởng thành trên tất cả các lĩnh vực.
          Năm 2007: Trường được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng 3.
                            
TƯ LIỆU NGÀNH Y TẾ
          Trạm Y tế Quỳnh Xuân được xây dựng năm 1955,  tại giếng Đồng nay thuộc khối 8 (được tách từ nhà Hộ sinh tại giếng ao xã Quỳnh Văn về) lúc đầu có tên gọi nhà Hộ sinh.
          Cơ sở vật chất:
          Năm 1955, xây dựng một ngôi nhà 5 gian, gồm: 1 phòng trực, 1 phòng sinh, 1 phòng cán bộ hộ sinh năm trực sinh, 2 phòng sản phụ nằm sau sinh.
          Năm 1964, xây dựng thêm 1 ngôi nhà 5 gian, gồm: 2 phòng làm kho thuốc đông y, tây y, 1 phòng giao ban, 2 phòng làm công tác điều trị.
          Năm 1968, làm thêm 1 ngôi nhà 4 gian, gồm: 2 phòng làm nhà kho - bếp, 2 phòng làm công tác điều trị chế biến thuốc.
          Năm 1978, chuyển Trạm lên vị trí đồng Chặng Hùng (thuộc khối 14) cho đến nay.
          Xây dựng 3 ngôi nhà: 1 ngôi nhà phục vụ công tác dược bán thuốc, 1 nhà làm phòng trực, hội họp, giao ban và điều trị, 1 nhà phục vụ công tác sinh đẻ.
          Hiện nay, cơ sở vật chất của Trạm được xây dựng khang trang, sạch đẹp, gồm: 1 nhà lớn, 9 phòng phục vụ công tác điều trị, hội họp, phòng trực, phòng khám, phòng bán thuốc. 1 nhà phục vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ, khám phụ khoa, phòng đẻ, hậu sản. 1 nhà làm kho, bếp đảm bảo công tác khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe tuyến đầu cho nhân dân.
          Trạm trưởng, đội ngũ cán bộ y tế qua các thời kỳ.
          Từ năm 1955-1961: Ông Cao Xuân Đề, Trưởng ban y tế, bà Nguyễn Thị Quý, nữ hộ sinh và 11 cán bộ y tế phục vụ ở các HTX nhỏ gọi là y tế viên, chưa có y sỹ phục vụ tại Trạm. Năm 1961, ông Cao Xuân Đề đi học, ông Nguyễn Đình Linh được cử làm Trưởng ban y tế.
          Năm 1964, Trưởng ban y tế địa phương được đổi thành Trưởng Trạm y tế     1. Nguyễn Đình Linh, Trạm trưởng.
          Năm 1968, ông Nguyễn Đình Linh đi phục vụ dân quân xe thồ, ông Nguyễn Đình Chính, Trạm trưởng.
          Năm 1968, bà Hồ Thị Ngân (Quỳnh Bảng) được huyện điều về làm Trạm trưởng.
          Năm 1970, ông Lê Tiến Nghiệm, Trạm trưởng.
          Năm 1973- 1990, chia tách xã Quỳnh Xuân và Quỳnh Tân. Ông Nguyễn Đình Linh, Trạm trưởng.
          Năm 1990- 1994, ông Cao Xuân Đề, Trạm trưởng.
          1994- 2011: ông Nguyễn Cảnh Phổ, Trạm trưởng.
          Từ năm 2011 đến nay: Ông Cao Trọng Thường.
          Hiện nay, Trạm có 6 cán bộ, gồm: 5 cán bộ định biên, 1 cán bộ hợp đồng trong đó có 1 bác sỹ, 1 y sỹ đa khoa, 2 điều dưỡng trung học, 1 nữ hộ sinh trung học, 1 nữ hộ sinh sơ cấp. 16 y tá/16 khối trong đó 2 đồng chí trung cấp điều dưỡng, 14 đồng chí sơ cấp.
          Năm 2004, Trạm được UBND tỉnh Nghệ An công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế xã.
          Năm 2014, trạm y tế phường đạt 10 tiêu chí Quốc gia, giai đoạn 2012 - 2020
 
 
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên và con người Quỳnh Xuân
CHƯƠNG 2: Quỳnh Xuân trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1945)
CHƯƠNG 3: Nhân dân Quỳnh Xuân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
CHƯƠNG 4: Quỳnh Xuân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 - 1975)
CHƯƠNG 5: Quỳnh Xuân trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2010)
TỔNG KẾT
PHỤ LỤC
 
 
 
 

(1) Sở dĩ có tên là Hang Vua bởi theo lời kể của một số cụ già ở địa phương trong Hang Vua có nhiều tượng đá đẹp, hình tượng giống như tượng vua ngự trong cung đình với nhiều quân hộ vệ. Đặc biệt, có hai tượng đá khi gõ vào phát ra tiếng kêu như chiêng, trống. Vì thế, nhân dân nơi đây gọi là Hang Vua
(2) Số liệu báo cáo cảu Ban chấp hành Đảng bộ xã Quỳnh Xuân khóa 20 lưu tại văn phòng Đảng ủy
(1) Theo tài liệu Quỳnh Lưu phong thổ ký do huấn đạo Hồ Tất Tố soạn vào đầu thế kỷ XIX(tài liệu viết tay còn lưu tại ban nghiên cứu lịch sử và địa lý Nghệ Tĩnh.)
(1) Theo Bùi Dương Lịch tài liệu biên soạn vào cuối thế kỷ XIX, hiện còn lưu ở ban nghiên cứu lịch sử và địa lý Nghệ Tĩnh
(2) Sách Quỳnh Lưu phong thổ ký do huấn đạo Hồ Tất Tố soạn vào đầu thế kỷ XIX đã nói đến giống cam đường ở Quỳnh Xuân.
(1) . Nhân dân Quỳnh Xuân gọi tòa này là tòa ca môn.
(2) Tại tòa nghi môn có treo bức thần phả mà nội dung chủ yếu nói việc Phùng Hưng giết cọp để cứu sống dân làng. Nội dung tóm tắt như sau:
  Đến Quỳnh Tụ, thấy có cọp, Phùng Hưng đem hết sức ra diệt. Sau chúng trả thù, hai ba cọp cùng đến, Phùng Hưng địch không nổi. Chúng đã giết được ông ở nơi phát tích (mé trên đường số 1), đưa xác về gò đất nơi lập đền thờ này. Nào ngờ mối đùn. Dân nhớ ơn lập đền thờ.
ngành nghề sản xuất xưa
 anh bac muoi 4anh bac muoi 2
(1) Xem phần  phụ lục
(1) Tương tuyền, bài này do ông Lê Hữu Cửu sáng tác cây đây khoảng 400 năm.
(1) Theo Địa chí văn hóa Quỳnh lưu S Đ D
(1) Cuối năm 1930, Tỉnh ủy Nghệ An đã cử đồng chí Võ Trọng Bành về tăng cường cho Huyện ủy Quỳnh Lưu
(1) . Xem: Quỳnh Lưu huyện địa đầu xứ Nghệ, NXB Nghệ Tĩnh, 1990, tr. 83.
(1) . Sau đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông dương.
(1). Theo: Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, NXB CT QG, tr.87.
(1) . Tổ chức này do phát xít Nhật dựng lên sau khi đảo chính Pháp, nhưng ta đã lợi dụng tổ chức này để hoạt động cho ta. Đây là một việc làm cấp bách nhằm giữ gìn trật tự nơi hương thôn của Đảng.
(1). Chi bộ Tùng Mai: chi bộ ghép gồm 4 đồng chí: Hoàng Nguyên Nậm, Vũ Văn Thống, Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Đình Hịnh.
(1).3. Hồ Chí Minh toàn tập,NXB CTQG, HN, 1995, t.4.tr31, 6.
(2) . Lúc bấy giờ bắc bộ bị lụt to, theo lời kêu gọi của Chính phủ, nhân dân Song Quỳnh đã giành số gạo tiết kiệm gửi giúp đồng bào bị thiên tai hàng trăm kg gạo.
 
(1) . Theo Quỳnh Xuân xưa và nay, Nguyễn Anh Tài chủ biên, XB 1991.tr, 51.
(1) .
(1) Lúc bấy giờ giá trị một tạ gạo khoảng 60 đồng, giá ba gian nhà gỗ lim cũng chỉ khoảng 1000 đồng
(1) Về sau, trong cải cách ruộng đất, Trần Thúy Roanh bị xử bắn
(1) Các đôi cưới như anh chị Nguyễn Đình Phượng và Nguyễn Thị Quyên, Nguyễn Cảnh Trì và Nguyễn Thị Mẽo… đã dành số tiền cưới mua tặng du kích hai quả mìn, 4 quả lựu đạn.
(1) Trong đó, chiến dịch Hòa Bình, Quỳnh Xuân có 120 người đi dân công; Chiến dịch Tây Bắc: 190 người; chiến dịch Điện Biên Phủ 420 dân công
(2) Lúc bấy giờ, các đồng chí Quỳnh, Hồ Dung, Nguyễn Khám đã trực tiếp đi với đoàn xe thồ để chỉ huy dân công, đồng chí Vũ Biên bị thương nặng, đồng chí hồ Dật bị hi sinh trên đường tiếp vận.
(1) . Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 7 (3/1935), Văn kiện lịch sử Đảng, Sđd, tr.44.
(1) . An-Ngãi là tên hai tỉnh kết nghĩa Nghệ An và Quàng Ngãi.
(1) Năm 1973, theo chủ trương của huyện Quỳnh Lưu, Quỳnh Xuân đã cắt 500 hộ tiếp tục lên nông trang Lê Lợi để lập thành xã Quỳnh Tân
([1]) Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ An. NXB Nghệ An năm 1995, trang 108.
([2]) Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, trang 214.
 
(1) Số liệu thống kê về thời kỳ chóng Mỹ cứu nước ở Quỳnh Xuân do đồng chí Hồ Trọng Nghĩa Bí thư Đảng ủy xã Quỳnh Xuân lúc bấy giờ là Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Quỳnh Xuân cung cấp 
(1) Biên bản Đại hội Quỳnh Xuân khóa 15 (tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng ủy xã Quỳnh Xuân)
(1). Báo cáo của đảng ủy do đồng chí Bí thư Đảng ủy Hồ Trọng Nghĩa đọc tại Đại hội Đảng bộ xã khóa XIX khai mạc vào ngày 27/9/1985
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. NXB Sự thật. Hà Nội - 1987
(1) Đây là bài hát của mục đồng (trẻ chăn trâu bò) để quyên tiền cúng ông eo (ông Đinh Bộ Lĩnh) tại bệ đá thờ đặt trên núi Tùng Lĩnh
(1)  Giếng Mới nay thuộc làng Xuân Hòa, Giếng Cung thuộc Đồi Đồng (Quỳnh Văn), giếng Đồng nay thuộc làng Trong.
 
 
(1) Bài này theo nhân dân cho biết do ông chắt Phan (Lê Tiến Thiện) sáng tác
(1). Chi bộ Tùng Mai: chi bộ ghép gồm các đồng chí: Hoàng Nguyên Nậm, Võ Văn Thống, Nguyễn Đình Thống, Vũ Văn Hịnh,

Nguồn tin: quynhxuan.gov.vn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây