CHƯƠNG II
I. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI (1945 - 1946)
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ Công hòa ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, tin tưởng vào chế dộ mới. Nhưng cũng như các địa phương khác, chính quyền cách mạng lâm thời ở Song Quỳnh đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức. Nạn đói vẫn hoành hành, trước cách mạng đã cướp đi hàng chục sinh mạng của người dân, nay vẫn là một mối nguy hiểm đối với sự sống của người dân lao động. Cùng với nạn đói là dịch bệnh, dịch tả, căn bệnh khủng khiếp đã làm cho hàng chục người dân lao động ở các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Quỳnh Văn bị chết, có gia đình 2- 5 người chết không còn một ai.
Hậu quả chính sách cai trị của đế quốc phong kiến để lại hết sức nặng nề, các tệ nạn xã hội tiếp tục diễn ra, nền kinh tế tiêu điều, kiệt quệ. Mặc dù chế độ phong kiến đã bị lật đổ, nhưng quan hệ sản xuất của nó vẫn tồn tại. Ở nông thôn, đại đa số nhân dân lao động vẫn không có ruộng đất hoặc không đủ ruộng để sản xuất.
Chính quyền cách mạng mới thành lập, đội ngũ cán bộ tuy nhiệt tình, năng nổ nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý xã hội mới. Tất cả điều đó đã đặt ra thách thức lớn đối với nhân dân Song Quỳnh cũng như nhân dân các địa phương khác trong cả nước.
Để ổn định tình hình khó khăn chung của đất nước, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã xác định nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng và toàn dân ta trong thời kỳ mới là chống ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong phiên họp đầu tiên ngày 3/9/1945 của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra 6 nhiệm vụ cần kíp:
- Phát động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói.
- Mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ,
- Tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu,
- Mở phong trào giáo dục ý thức (cần kiệm liêm chính, chí công vô tư) để bài trừ thói hư, tật xấu của chế độ thực dân để lại.
- Bỏ ngay thuế chợ, thuế thân, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
- Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.
Cùng với nhân dân toàn huyện và nhân dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của chính quyền mới, nhân dân Song Quỳnh đã hăng hái tham gia củng cố chính quyền và chống "ba thứ giặc", giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.
1. Chi bộ Đảng thành lập lãnh đạo quân và dân Song Quỳnh, Xuân Liên thực hiện công cuộc kháng chiến, kiến quốc
Do số lượng đảng viên tăng và yêu cầu của phong trào quân chúng,
ngày 14/11/1945, Huyện ủy Quỳnh Lưu quyết định thành lập Chi bộ Tùng Mai(1). Chi bộ Tùng Mai lúc mới thành lập, gồm 4 số đảng viên thuộc xã Song Quỳnh: Hoàng Nguyên Nậm, Vũ Văn Thống, Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Đình Hịnh, đồng chí Hoàng Nguyên Nậm được cử làm Bí thư. Đây là tiền thân của tổ chức Đảng các xã Quỳnh Xuân, Quỳnh Văn, Quỳnh Tân hiện nay.
Chi bộ ra đời đánh dấu bước chuyển biến trong sự nghiệp bảo vệ xây dựng quê hương, góp phần vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Mặc dù được thành lập muộn hơn so với một số xã có chi bộ từ những năm 1930-1931, 1936-1939, 1939 - 1945 nhưng chi bộ chính là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, được thử thách qua các phong trào cách mạng của quần chúng. Những đảng viên đầu tiên của chi bộ thực sự là những người con trung kiên đứng mũi chịu sào trong công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ không ngừng coi trọng công tác bồi dưỡng và phát triển thêm đảng viên mới.
Tháng 6/1946, chi bộ Tùng Mai kết nạp thêm một số đảng viên mới như: Nguyễn Văn Chính, Hồ Xơn, Lê Tiến Việt, Lê Đôn Ưu... Trên cơ sở số đảng viên được tăng cường và để phù hợp với tình hình mới
ngày 14/11/1946, Huyện ủy Quỳnh Lưu quyết định tách chi bộ Tùng Mai thành hai chi bộ:
Chi bộ Tùng Mai thuộc xã Xuân Liên do: đồng chí Vũ Văn Thống - Bí thư; đồng chí Phạm Văn Đát - Phó bí thư.
Chi bộ Tùng Sơn thuộc Song Quỳnh do đồng chí Hoàng Nguyên Nậm làm Bí thư.
Từ đây, phong trào cách mạng của nhân dân Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Xuân An đã có chi bộ Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy mới hình thành về tổ chức, nhưng Chi bộ đã nhanh chóng khẳng định được vai trò của mình trong việc chỉ đạo phong trào quần chúng ở địa phương.
Ngày 6-1-1946, cùng với các nơi trong cả nước, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I tại Song Quỳnh đã được diễn ra theo đúng Luật định. Phần đông cử tri đã tự giác, phấn khởi đi bầu cử. Ai cũng nói, đây là lần đầu tiên được đi bầu cử, mọi người hào hứng tự tay mình cầm lá phiếu tham gia xây dựng chính quyền.
Cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra thành công tốt đẹp, đầu năm 1946, Tỉnh Ủy Nghệ An xem xét tình hình phong trào chung đã đề ra chủ trương sáp nhập một số làng thành xã, lấy xã làm đơn vị hành chính.
Tháng 4/1946, hai làng Quỳnh Tụ và Quỳnh Văn hợp nhất thành xã Song Quỳnh. Dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính lâm thời huyện. Ủy ban hành chính lâm thời xã Song Quỳnh gồm các ông:
1. Ông Hồ Hữu Phan - Chủ tịch.
2. Ông Lê Đức Trứ - Phó Chủ tịch.
Cuối năm 1946 - 1948, các làng: Xuân Úc, Xuân Hòa, thôn Xuân An và xã Xuân Phương được sát nhập, thành lập xã Xuân Liên.
Chính quyền được kiện toàn:
Ông Vũ Văn Thống - Chủ tịch
Ông Nguyễn Hành Thiện - Phó chủ tịch
Chi bộ Đẳng được thành lập, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội và bầu Hội đồng nhân dân với sự ra đời của Ủy ban hành chính, Ủy ban kháng chiến cũng như việc mặt trận và các tổ chức đoàn thể được kiện toàn có ý nghĩa hết sức to lớn đối với dân tộc ta. Điều đó khẳng định niềm tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền, đồng thời giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ của bọn phản động trong nước và ngoài nước; góp phần tăng cường tình đoàn kết giữa dân với Đảng, chính quyền tạo cơ sở vững chắc để tiếp tục giải quyết tốt các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài trên quê hương
2. Chống giặc đói
Để giải quyết nạn đói trước mắt, chính quyền cách mạng lâm thời Song Quỳnh đã tiến hành trưng thu lúa gạo của một số tên cường hào phát cho nông dân. Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ các khoản nợ cũ và những thứ thuế vô lý do chế dộ cũ để lại. Đồng thời để giúp dân chống đói, chính quyền nhân dân huyện đã tiến hành chia các nhu yếu phẩm thu được của phát xít Nhật đua về từng làng để cứu đói cho dân và cung cấp để cho lực lượng tự vệ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
Biện pháp cơ bản nhất để chống đói là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Một phong trào thi đua sản xuất tăng gia sản xuất được phát động. Dưới sự chỉ đạo của chính quyền và các đoàn thể: Thanh niên, Phụ nữ, nhân dân Song Quỳnh đã tiến hành khai hoang vỡ hóa hàng chục mẫu đất dọc chân núi Mù U, Tùng Lĩnh…. Với mọi nỗ lực lớn lao của cán bộ và nhân dân, chỉ sau hơn 3 tháng, nhiều cánh đồng xưa hoang hóa đã được phủ bằng các loại khoai lang và rau đậu… màu hồng cũng ửng lên trên nhiều khuôn mặt trước đây bủng beo, vàng vọt vì đói, rét và bệnh tật.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: " lúc ta nâng bát cơm mà ăn, phải nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước:
Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mổi tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa cháo để chờ mùa lúa sang năm, khỏi chết đói. Tôi chắc rằng đồng bào ai cũng sẵn lòng cứu khổ cứu nạn, mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nói trên
(1).
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, bên cạnh đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chính quyền và các đoàn thể nhân dân tích cực vận động nhân dân thực hành tiết kiệm. Nhà nào cũng lập một hũ gạo tiết kiệm và ủng hộ những gia đình bị đói bằng cách: Cứ mỗi bữa nấu, nhà nào cũng giành lại một nắm gạo bỏ vào hũ. Cứ thế sau mười lăn ngày (hay một tháng) mỗi nhà đã có dư 5-7 cân gạo. Số gạo đó vừa giúp bà con qua khỏi cảnh đứt bữa của những ngày ba tháng tám, vừa có thể hỗ trợ cho những vùng bị thiên tai
(2). Đặt hũ gạo tiết kiệm đã trở thành phong trào của quần chúng được duy trì, kéo dài cho đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với tên gọi khác nhau là: “Hũ gạo kháng chiến”, “hũ gạo nuôi quân”.
3. Chống giặc dốt
Cũng như mọi miền quê trên đất nước Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám nhân dân Song Quỳnh có trên 95% dân số mù chữ. Do vậy, việc chống giặc dốt cũng là một nhiệm vụ cấp bách như chống giặc đói.
Chủ tịch Hồ Chí minh nói: "Dốt nát cũng là kẻ địch", "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", "muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho nước mạnh, dân giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ được thành lập, một phong trào chống nạn mù chữ được triển khai sâu rộng và nhanh chóng trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Hồ Chủ tịch, Ủy ban xã Song Quỳnh đã thành lập ra Ban bình dân học vụ do ông Nguyễn Hiên làm trưởng ban, thay mặt chính quyền đôn đốc việc học của dân chúng. Đội ngũ giáo viên là những người biết chữ quốc ngữ, vừa là người tổ chức phong trào, vừa là người dạy.
Cuộc vận động “xóa nạn mù chữ” được phát động mạnh mẽ, sâu rộng trong mọi tầng lớp, mọi đối tượng trong xã hội. Những ai chưa biết chữ đều phải đi học. Với phương châm: Người biết nhiều dạy cho người biết ít, người biết ít dạy cho người không biết. Lớp học được mở ra khắp nơi. Khắp sân đình, bờ tre, sân chùa, hội quán đâu đâu cũng có tiếng í ới học đánh vần.
Để duy trì lớp học, nơi đây đã có nhiều sáng kiến phong phú. Không có giấy thì viết lên bảng gỗ, bờ tường. Thiếu bút mực thì dùng than, dùng gạch. Không có dầu thắp sáng họ đã sáng chế ra loại đèn vạc (đèn thắp bằng những que củi thông, một thứ lâm sản rất sẵn ở Song Quỳnh) để phục vụ cho việc học vào ban đêm.
Ban bình đân học vụ phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, sát hạch việc học của mọi người. Việc tổ chức đố chữ trước khi vào lớp, xuống đò được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Các đoàn thể tổ chức trao giải thưởng cho các chòm, xóm nhằm cổ vũ cá nhân có thành tích học tập cao.. Bằng mọi biện pháp tích cực nên một năm sau ngày đất nước giành được độc lập, xã Song Quỳnh đã có trên 70% số người biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ
(1). Đây là một kết quả cao so với các địa phương khác trong huyện.
Nạn đói được ngăn chặn, nạn dốt được đẩy lùi đó là cơ sở hậu thuẫn cho đồng bào và chiến sỹ cả nước trong đó có cán bộ và nhân dân Song Quỳnh chiến thắng sự đe dọa của giặc ngoại xâm.
4. Xây dựng Quỹ độc lập và ủng hộ đồng bào Nam bộ kháng chiến
Trước tình thế đất nước khó khăn, ngân khố Quốc gia trống rỗng, Chính phủ chủ trương phát động đồng bào quyên góp ủng hộ gây Quỹ độc lập và Quỹ đảm trợ quốc phòng, đặc biệt là phát động "tuần lễ vàng". Chủ trương này được nhân dân khắp nơi tự nguyện hưởng ứng. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ 17-9 đến 24-9-1945), nhân dân cả nước đã góp được 20 triệu đồng và 370 kg vàng. Nhiều nơi như ở Hà Nội, Sài Gòn, nhân dân đã ủng hộ một lượng lớn tiền của để kiến quốc. Riêng thành phố Vinh và 5 huyện của tỉnh Nghệ An góp được 23,6 kg vàng.
Đối với Song Quỳnh, Xuân Liên là một địa phương nghèo nhưng khi được phát động, nhân dân đã không tiếc số của cải dành dụm từ bao đời quyên góp cho Chính phủ. Một số gia đình khá giả tự nguyện đóng góp bạc, vàng. Còn lại phần đông bà con lao động đóng góp các loại đồ đồng như mâm đồng, khay đồng, nồi đồng và các vật dụng có giá trị giúp chính phủ Cụ Hồ rèn đúc vũ khí để đánh lại giặc Pháp. Ai ai cũng mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc kiến quốc. Bởi thế “Tuần lễ vàng” ở Song Quỳnh đã thu được kết quả tốt.
Sau cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám 1945, tuy ta giành dduweowcj chính quyền nhưng thù trong, giặc ngoài luôn rình rập. Theo Quyết định của Hội nghị quốc tế Pôxđam, quân Đồng Minh sẽ vào Việt Nam để tước vũ khí, giải giáp quân đội Nhật Bản: Quân Tưởng Giới Thạch từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào. Nhưng thực tế, quân Tưởng Giới Thạch kéo vào mang theo cả bọn tay sai phản động người Việt để lật đổ chính quyền cách mạng nước ta, quân Anh che chở cho quân đội Pháp tái chiếm nước ta. Ngày 23-9-1945, giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ, đồng bào miền Nam bắt đầu kháng chiến.
Trước tình hình đó Đảng và chính phủ đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ, trong các đoàn quân Nam tiến đã có nhiều con em của nhân dân Song Quỳnh – Xuân Liên như các ông: Nguyễn Công Linh, Cao Lai, Nguyễn Đình Khoan, Vũ Sơn, Hồ Sơn, Hồ Quế, Nguyễn Niên, Lê Trám…Trong số những người này nhiều đồng chí đã hiến dâng tuổi trẻ của mình cho “Nam bộ thành đồng”. Máu xương của các anh đã góp phần cùng toàn dân giữ vững nền độc lập dân tộc.
Do việc nhập xã nên từ năm 1950, Quỳnh Xuân có thêm hai thôn công giáo toàn tòng là Xuân An và Sông Lô với vài chục gia đình giáo dân. Đại đa số gia đình giáo dân ở đây là những người lao động nghèo khổ, có tinh thần kính chúa, yêu nước. Nhưng cũng không ít phần tử phản động, tay chân của Pháp, đội lốt tôn giáo, tìm mọi cách chia rẽ lương giáo, chống lại chủ trương của cuộc kháng chiến. Do đó, ngay từ khi nhập xã, cấp ủy và chính quyền xã Quỳnh Xuân đã chú ý tập trung xây dựng phong trào quần chúng ở hai xóm giáo này.
II. THAM GIA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
1. Chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.
Từ tháng 10/1946, thực dân Pháp ngày càng biểu hiện rõ quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa, giữa tháng 11 đến đầu tháng 12, chúng liên tiếp gây hấn ở Hải Phòng, Hà Nội. Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố gắng đàm phán để chiến tranh không xẩy ra nhưng "Chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới". Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Ngày 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến nổ ra ở thủ đô Hà Nội. Đêm 19-12-1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã viết: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô nệ”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc ta lại một lần nữa nhất tề đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp để cứu nước.
Nằm trong vùng tự do của cuộc kháng chiến (Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh), một trong những hậu phương lớn của cả nước; vì vậy thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn, cả quân sự và chiến tranh tâm lý để phá hoại hậu phương, tiêu hao sức mạnh kháng chiến, khi có điều kiện thì đổ quân chiếm đóng lâu dài. Trước tình hình mới, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ lúc này là: "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", tăng cường lực lượng về mọi mặt để chiến đấu, bảo vệ hậu phương.
Năm 1947, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, Ủy ban kháng chiến ra đời cùng điều hành với Ủy ban hành chính, sau một thời gian ngắn, hai ủy ban được sát nhập , lấy tên là Ủy ban kháng chiến hành chính. Để tăng cường sự chỉ đạo của Đảng trong hoàn cảnh mới, Chi bộ đã cử một số đảng viên nắm giữ các cương vị chủ chốt của chính quyền và đoàn thể. Ông Nguyễn Văn Chính được bầu làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Song Quỳnh; ông Hồ Đạt Cầu - Phó Chủ tịch.
Thực hiện chủ trương của Huyện Ủy, cùng quân và dân trong toàn huyện, lực lượng dân quân du kích và nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên tăng cường đoàn kết, vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa ra sức chuẩn bị mọi mặt, đề cao cảnh giác, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại hậu phương của địch.
Tháng 3/1947, Chính phủ quyết định thành lập ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Kể từ đây, lực lượng dân quân du kích ra đời, thay thế cho các đội tự vệ ở các làng, xã.
Giữa năm 1947, cơ quan Huyện đội Quỳnh Lưu chính thức được thành lập. Từ đây, công tác quân sự địa phương càng được chú trọng để chuẩn bị đối phó với mọi hành động của thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai. Tại các thôn xóm, lực lượng dân quân du kích kết nạp thêm đội viên, khẩn trương luyện tập quân sự, tăng cường tuần phòng, canh gác, sắm sửa thêm vũ khí tự tạo như giáo mác, gậy gộc... xây dựng một số phương án chiến đấu bảo vệ thôn xóm và phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang tập trung của huyện... Để khắc phục về vũ khí chiến đấu, đầu năm 1947, một xưởng sản xuất vũ khí của huyện được thành lập. Trong điều kiện nguyên liệu sản xuất vũ khí thiếu thốn, cùng với xã khác, nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên đã thu lượm được hàng nghìn kg sắt vụn ủng hộ xưởng quân khí của huyện.
Công tác tuyên truyền kháng chiến được làm thường xuyên. Khắp nơi trong xã đều có khẩu hiệu “Trường kỳ kháng chiến – Nhất định thắng lợi”. Mỗi xóm đã cho dựng một chòi phát thanh, đêm đêm các thành viên của xóm đều đọc tin tức chiến thắng ngoài mặt trận và các Chỉ thị của Chính phủ cho nhân dân nghe. Xã thành lập tổ tuyên truyền hoạt động bằng nhiều hình thức như: sáng tác thơ ca, hò, vè để ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi tinh thần sản xuất phục vụ kháng chiến của nhân dân.
Năm 1947, chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông với chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh", âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của thực dân Pháp bị thất bại. Để cứu vãn tình thế, chúng tấn công nhiều nơi ở đồng bằng Bắc Bộ nhưng bị quân và dân ta chặn lại. Chúng âm mưu quấy rối vùng tự do của ta hòng ngăn cản sự chi viện của hậu phương Thanh -Nghệ Tĩnh đối với các chiến trường và đồng thời thăm dò lực lượng bộ đội chủ lực của ta.
Thực hiện tiêu thổ kháng chiến
Đầu năm 1947, Chính phủ ban hành sắc lệnh tiêu thổ kháng chiến với khẩu hiệu: "phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không thể lợi dụng được..."
(1) nhằm ngăn chặn sự tiến công của địch đối với vùng tự do, hậu phương của cuộc kháng chiến. Quân và dân Song Quỳnh, Xuân Liên đã góp hàng nghìn ngày công vào việc “tiêu thổ kháng chiến”. Hàng ngày, nam nữ thanh niên thay nhau tham gia đập phá các công sở, nhà cửa lớn ở thị trấn Cầu Giát và đào phá các cầu cống, đặt vật cản trên hai tuyến đường Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam…Trong khi thực hiện công tác tiêu thổ, một số đồng bào, đồng chí của quê hương Song Quỳnh, Xuân Liên đã ngã xuống bởi bom đạn của kẻ thù và các tai nạn rủi ro như: anh Hồ Miếp, Nguyễn Đạt, Lê Điểm, Hồ Văn Đát… máu xương của các anh và công sức của quân và dân Song Quỳnh, Xuân Liên trong công cuộc tiêu thổ đã góp phần cùng đồng bào tỉnh nhà ngăn chặn được sự chiếm đóng của thực dân Pháp, tạo điều kiện để xây dựng quê hương Nghệ -Tĩnh thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến.
Tháng 4/1948, Chính phủ ban hành trái phiếu kháng chiến. Đây là trái phiếu đầu tiên Chính Phủ Cách mạng ban hành. Được huyện hướng dẫn, Ủy ban kháng chiến Song Quỳnh, Xuân Liên đã vận động nhân dân mua. Nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên hăng hái, tích cực tham gia được huyện biểu dương, khen thưởng. Một số cá nhân tiêu biểu trong việc mua trái phiếu kháng chiến là ông Nguyễn Đình Hiến mua phiếu 4.200 đồng
(1, bà Quý mua phiếu 4000 đồng... Cùng với đồng bào cả nước những đóng góp về vật chất quý báu đó góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta đi dần đến thắng lợi.
2. Tiếp tục củng cố chính quyền, lãnh đạo nhân dân tham gia đập tan cuộc đổ bộ của thực dân Pháp vào Quỳnh Lưu (tháng 10/1949)
Năm 1949, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, nhiệm vụ, cần tập trung lực lượng mạnh hơn. Theo chủ trương của trên,
xã Song Quỳnh, xã Xuân Liên và một phần xã Nhật Tân nhập lại lấy tên là xã Quỳnh Xuân. Diện tích Quỳnh Xuân lúc bấy giờ có khoảng 5.000 héc ta. Hai chi bộ Tùng Mai và Tùng Sơn cũng được nhập lại thành
Chi bộ Quỳnh Xuân.
Đồng chí Vũ Văn Thống - Bí thư.
Phạm Xuân Đát - Phó Bí thư
Công việc bàn giao phải tiến hành trong 6 tháng. Trong quá trình đó, lại phải chống giặc Pháp đổ bộ lên Quỳnh Lưu. Đến ngày 21/10/1949, Hội đồng nhân dân ba xã bầu ra Ủy ban hành chính kháng chiến xã Quỳnh Xuân gồm 7 ủy viên chính thức gồm các đồng chí:
Ông Vũ Văn Thống Huyện ủy viên - Chủ tịch.
Ông Hồ Hữu Phan - Phó Chủ tịch.
Ông Trần Chí Thành - Ủy viên, Văn Phòng.
Ông Nguyễn Văn Đồng - Ủy viên, Tài chính.
Ông Hồ Trọng Định - Ủy viên, Tuyên truyền.
Ông Nguyễn Minh Thiện - Ủy viên dân sinh kinh tế.
Ông Hồ Văn Thành - Ủy viên quân sự.
Do địa bàn rộng, lại có nhiều vùng khác nhau nên Ủy ban hành chính xã đã tổ chức một mạng lưới giúp việc về chuyên môn khá đông và có chất lượng.
Khối Công an nội chính gồm: Trưởng ban đồng chí Nguyên Đình Tạn, giúp việc có đồng chí Nguyễn Đình Thống, Hoàng Quang Kỳ.
Khối Văn phòng gồm: Trưởng ban đồng chí Đậu Văn Đình, và 5 chuyên môn:
Ông Hoàng Quang Đoan - Văn thư, kế toán.
Ông Hồ Đăng Thế - Văn phòng, tư pháp.
Ông Hồ Kim Anh, Hồ Văn Tế, Hồ Văn Áng (ấn loát Ly lô).
Khối thông tin - văn hóa gồm: Trưởng ban Nguyễn Đình Qươn (Tân), các thành viên: Ông Nguyễn Đình Phượng, Hồ Phi Tích.
Bình dân học vụ gồm: Trưởng ban Hồ Hữu Toán, các thành viên Trần Thế Vinh, Hồ Văn Khoan.
Ông Hồ Sỹ Toán - thủy lợi, canh nông
Ông Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Đình Khán - Xã đội
Các Ông: Hồ Văn Xơng, Hồ Khan, cán sự Hồ Sỹ Dung - Xã đội phó, chính trị viên
Các tổ chức chính trị xã hội cũng được kiện toàn, đi vào hoạt động sôi nổi, nề nếp và có hiệu quả.
Mặt trận Liên Việt gồm các ông
Ông Trần Thúy Doanh, Chủ tịch.
Ông Dương Ngọc Võ, Phó Chủ tịch.
Ông Hồ Kim Lân, thư ký.
Chấp ủy Việt Minh gồm các ông
Ông Lê Tiến Việt, Bí thư.
Ông Hồ Văn Oanh, Phó Bí thư.
Ông Thái Văn Đào, thư ký. Nông dân cứu quốc
Thanh niên cứu quốc: Bùi Văn Cư.
Phụ nữ cứu quốc: Bà Dương Thị Thỉnh.
Việt Nam cứu quốc: Ông Nguyễn Thế Đắc.
Các tổ chức chính quyền, đoàn thể được kiện toàn, các thôn xóm được hợp nhất, từ 38 đơn vị cũ nay hợp nhất còn 18 chòm, phân chia như sau: Phú Xuân (Xuân Úc), Đại Đồng, Xuân An, Ái Quốc là những chòm của xã Xuân Liên cũ. Còn lại các xóm được sắp xếp như sau: Tân Xuân, Sông Lô, Quyết Tiến (Hồng Châu) Thăng Long, Đồng Chính, Tiến Hóa, Quỳnh Lâm, Bắc Sơn, Hồng Phong, Yên Thành, Hồng Việt, Hồng Lương, Hồng Lạc, Tân Thái.
Sau khi ổn định tổ chức Đảng, chính quyền cùng các đoàn thể tiến hành cuộc vận động hiến điền đưa ruộng đất về tay nhân dân lao động. Đây là lần đầu tiên chúng ta trưng thu, trưng mua ruộng đất của địa chủ, phú nông để lấy quỹ nuôi bộ đội và chia một phần cho nông dân không có ruộng cày. Trong nửa đầu năm 1950, xã Quỳnh Xuân đã trưng thu hàng trăm mẫu ruộng chia cho nông dân. Tháng 6/1950, Huyện ủy, Ủy ban kiểm tra hành chính huyện tổ chức cuộc họp liên xã gồm: Quỳnh Xuân, Quỳnh Thạch, Quỳnh Thanh, Quỳnh Đôi về việc vận động những người có nhiều ruộng đất hiến điền. Đây là đợt làm thí điểm tập trung ở đồn điền Trịnh Môn. Nhờ công tác tuyên truyền vận động, Trần Thúy Doanh đã tự nguyện hiến 65% tổng diện tích của đồn điền. Do vậy, Ban quản trị đồn điền Trịnh Môn được thành lập. Tiếp theo là Trần Mai (em ruột của ông Trần Thúy Doanh là Ủy viên quân sự chính quyền lâm thời của huyện Quỳnh Lưu) ủng hộ 200 mẫu, ông được bầu vào Ban quản trị đồn điền.
Đầu năm 1948, địch tăng cường đánh phá vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Dọc bờ biển huyện Quỳnh Lưu, địch đã do thám và tiến hành nhiều cuộc tập kích lớn nhỏ nhưng đều bị quân và dân ta phát hiện và đánh bại. Âm mưu của địch là thăm dò để đổ bộ phá hoại hậu phương kháng chiến, đồng thời thăm dò lực lượng ứng phó và làm phân tán lực lượng vũ trang chủ lực của ta để chúng tập trung vào những chiến trường trọng điểm.
Rạng sáng ngày 5/10/1949, tháng 10/1949, giặc Pháp bất ngờ đổ bộ lên nhiều xã thuộc vùng ven biển huyện Quỳnh Lưu. Âm mưu của giặc Pháp trong cuộc hành quân này nhằm phá những trung tâm dự trữ lực lượng cho cuộc kháng chiến. Mặt khác, tấn công lên Quỳnh Lưu nhằm phân tán lực lượng bộ đội chủ lực của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với tiền tuyến.
Để đạt được những mục đích ấy, sáng ngày 5/10/949 (tức 14-8/ âl), hơn 1000 tên địch gồm 400 lính Pháp, 100 lính da đen, 500 ngụy quân với sự yểm trợ của 5 chiếc máy bay (trong đó có một chiếc thủy phi cơ Ca ra ti nát) và 4 tàu chiến cùng một hàng không mẫu hạm, lén lút mở cuộc đổ bộ lên các xã ven biển của huyện Quỳnh Lưu.
Sau khi đổ bộ lên bờ, lực lượng bộ binh địch chia làm 3 cánh tấn công vào huyện Quỳnh Lưu.
Cánh thứ nhất gồm 100 tên lính Pháp, 300 ngụy binh theo Lạch Cờn tràn vào xã Văn Phương (Quỳnh Phương).
Cánh thứ hai gồm 300 lính Pháp và da đen cùng 200 ngụy quân theo Lạch Thơi đổ lên Thuận Hóa và Ngọc Long (Quỳnh Thuận – Quỳnh Long).
Cánh thứ ba gồm 120 lính Pháp và một số ngụy binh đổ vào Lạch Quèn càn lên Phú Nghĩa (Quỳnh Nghĩa – Tiến Thủy).
Trước cuộc tập kích bất ngờ của địch, bước đầu quân và dân Quỳnh Lưu lâm vào thế bị động, lúng túng. Có một số nơi giặc tràn vào đầu làng mà dân quân du kích vẫn không hay biết, có người đã nhầm địch là đồng bào mình đi chợ hoặc lấy củi.
Nhưng sau đó, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Ủy ban khánh chiến hành chính huyện, Huyện đội Quỳnh Lưu, cấp ủy, chính quyền ở các địa phương đã khẩn trương triển khai lực lượng chiến đấu và tổ chức cho đồng bào tản cư. Đại đội C120 của huyện Quỳnh Lưu đã nhanh chóng hành quân xuống các làng có chiến sự để phối hợp với dân quân du kích đánh địch. Một trung đội đã theo Quốc lộ 1A hành quân xuống Văn Phương chặn cánh quân địch đổ bộ lên cửa Cờn. Một trung đội khác theo đường 37 tiến xuống chặn cánh quân địch ở Ngọc Long, Thuận Hóa lên.
Cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra quyết liệt tại cầu Trốc Voi (thuộc dãy núi Tùng Lĩnh). Tại đây 13 tên địch phải đền tội. Trên đường tháo chạy, bọn địch đã cướp xe ba gác của đồng bào ta để kéo xác đồng bọn. Sau đó, chúng chiếm núi Lạp (một cao điểm ở phía Nam xã Song Quỳnh, gần Quốc lộ 1A). Tại đây, quân Pháp đã dùng súng máy khống chế con đường Quốc lộ 1A, sau đó một bộ phận bộ binh địch kéo vào các làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Quỳnh Văn… Chúng lùng sục, tìm kiếm phương tiện và bắt thêm người để khiêng xác đồng bọn, cáng những tên bị thương. Dân quân du kích tổ chức chặn đánh địch, ở Quỳnh Tụ. Trong lúc đối đầu, đồng chí Hồ Sỹ Hội bị địch bắn hi sinh. Khi địch kéo đến làng, du kích Trần Ôn đang giơ lựu đạn để ném thì bị chúng bắn chết.
Một toán địch vào chòm Nghĩa Vụ bắt thêm người rồi rút. Vào làng Quỳnh Văn, chúng kéo qua chòm Yên Thịnh. Địch không dám đi trên đường vì sợ mìn của du kích. Chúng phải lội giữa các ruộng bùn, có tên phải cởi bỏ cả giày. Vượt qua Yên Thịnh, chúng hợp quân rồi kéo vào Quỳnh Hậu. Ở xã Song Quỳnh, chúng đã giết hại 8 người dân gồm: Hồ Sỹ Hội, Phan Đình Trường, Trần Ôn, Lê Tiến Khoách, Nguyễn Huy Biểu, Đậu Đức Miêu và bắt đi 18 người.
Sau ba ngày đêm chiến đấu liên tục, lực lượng vũ trang cùng dân quân du kích các xã trong huyện đã kìm chân địch, đánh địch một cách anh dũng. Chúng ta đã tiêu diệt 113 tên địch trong đó có 63 tên lính Pháp và Âu - Phi, nhiều tên bị thương. Chiều ngày 7/10/1949, địch phải tháo chạy ra biển. Chúng bắt đi 108 người, đốt phá 674 nóc nhà, 135 thuyền và cào phá nhiều héc ta ô nại muối. Ta hy sinh hơn 20 chiến sỹ (bộ đội và dân quân du kích), 151 người dân bị chúng giết chết, 50 người bị thương.
Đánh giá ý nghĩa của cuộc chống càn thắng lợi. Báo “Truyền thanh kháng chiến” ra số ngày 8/10/1949, của cơ quan thông tin Nghệ An viết: “điều chắc chắn là giặc chỉ muốn quấy rối rồi rút, nhưng nếu chúng ta đối phó yếu ớt thì giặc sẽ ở lại và đánh chiếm lan rộng ra”.
Phấn khởi vì cuộc chống càn thắng lợi, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Dưới sự chỉ đạo của chính quyền, nhân dân Song Quỳnh, Xuân Liên càng nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tay sai đến thắng lợi cuối cùng.
Tuy bị thất bại trong trận càn tháng 10/1949, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ phá hoại vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Chúng vẫn thường xuyên cho máy bay trinh sát bắn phá, cho biệt kích đột nhập bằng đường biển, quấy rối hậu phương, gây khó khăn cho chúng ta về mọi mặt.
Đầu năm 1951, thực hiện chủ trương của Trung ương chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội Chi bộ xã Quỳnh Xuân được tiến hành tại đình làng Yên. Đại hội đã đánh giá những thành tựu đã đạt được sau 5 năm xây dựng chính quyền mới của nhân dân Xuân Liên, Song Quỳnh và rút ra bài học kinh nghiệm trong việc chỉ đạo kháng chiến, nhất là việc chống càn năm 1949. Đại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, chỉ ra lợi thế về diện tích đất tự nhiên khoảng 5 ngàn ha, dân số hơn 5 ngàn người, có một đội ngũ cán bộ trẻ hăng hái, nhiệt tình, với số lượng đảng viên hơn 250 đồng chí, nhân dân cần cù lao động, tiết kiệm, tin tưởng vào Đảng, chính quyền. Tất cả những yếu tố đó tạo nên sự vững chắc trong quá trình xây dựng quê hương, tiếp tục thực hiện nghĩa vụ cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến đang bước sang giai đoạn phản công đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đại hội bầu ra chi ủy mới, đồng chí Vũ Văn Thống được bầu làm Bí thư.
Nhằm tập hợp lực lượng để huy động đến mức cao nhất mọi nhân tài, vật lực cho các chiến trường, Đảng chủ trương đưa một số nhân sĩ, tri thức tiến bộ và một số tá điền tham gia bộ máy chính quyền, đoàn thể, do đó Trần Thúy Doanh tuy là địa chủ lớn nhưng vẫn được bầu làm chủ tịch Mặt trận Việt Minh xã Quỳnh Xuân.
Tuy có nhiều lần thay đổi về địa giới, nhưng những đảng viên của con em Quỳnh Xuân luôn khẳng định được tính tiên phong, gương mẫu của mình trong việc chỉ đạo ở địa phương. Trải qua quá trình công tác, thử thách, các đảng viên đã không ngừng rèn luyện để thích ứng với những thay đổi của tình hình, trung thành tuyệt đối với Đảng, với lợi ích của nhân dân, vì dân mà phục vụ.
3. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đưa cuộc kháng chiến giành thắng lợi.
Đi đôi với việc xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu chống trả kẻ thù, nhân dân Quỳnh Xuân, chăm lo phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất.
Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, nhằm có đủ lương thực chi viện cho chiến trường, cùng với việc sản xuất rau màu để tự cứu mình, thực hiện chủ trương của chính phủ về đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhân dân toàn xã Quỳnh Xuân đã tiến hành tổ chức khai hoang, phục hóa, cải tạo diện tích đất bị nhiễm phèn, mặn thành những cánh đồng lúa, cải tạo gò đống thành nương khoai, bãi sắn, từ những đồng cồn hoang thành những trang trại canh tác. Ngoài ra, một số gia đình đã có ý thức làm hố xí hai ngăn để ủ phân làm tăng lượng phân bón. Các bà, các chị tự học cày, học bừa để chồng con yên tâm lên đường đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Bản thân họ còn tham gia hàng vạn ngày công đào mương máng, kênh tiêu phục vụ sản xuất.
Năm 1953, xã bắt đầu xây dựng các tổ vần công, đổi công, chủ yếu trong nông dân. Cứ ba bốn hộ gia đình thành một tổ. Trong từng tổ, các gia đình có nhiều lao động đi làm đổi công cho các gia đình có trâu bò. Việc vần công, đổi công đã tạo nên tinh thần đoàn kết trong nông thôn, bước đầu thành lập tổ hợp giúp nhau trong sản xuất.
Cuối năm 1953, Chính phủ quyết định triệt để giảm tô. Mức giảm tô đặt ra là 25%, tức là những người có ruộng phát canh thu tô thì hàng vụ phải giảm 25% số thu của nông dân. Thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và chính phủ, công cuộc cải cách ruộng đất và giảm tô đã được triển khai từng bước. Ở vùng tự do, hậu phương của cuộc kháng chiến, cuộc vận động lớn này đã thu hút được sự tham gia của mọi lực lượng quần chúng mà đông đảo nhất là tầng lớp bần cố nông ở nông thôn.
Đây là một cuộc đấu tranh giai cấp hết sức gay go, quyết liệt. Giai cấp địa chủ, phú nông nắm trong tay nhiều ruộng đất có mối liên hệ chặt chẽ với thực dân, đế quốc không dễ từ bỏ đặc quyền, đặc lợi và bản chất bóc lột của giai cấp thống trị.
Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ, chính quyền và các đoàn thể đã dựa vào sức mạnh to lớn của quần chúng, buộc đại đa số địa chủ, phú nông phải thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức cho nông dân. Những địa chủ lớn buộc phải thoái tô 40-50%. Riêng địa chủ Trần Thúy Doanh có trên 4.000 mẫu ruộng, lại có thái độ ngoan cố trong việc thực hiện giảm tô, giảm tức cho nên đã bị chính quyền cách mạng tịch thu toàn bộ ruộng đất và bắt đi cải tạo
(1).
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, trên lĩnh vực phát triển kinh tế, xã Quỳnh Xuân đã thực hiện đầy đủ các quy định của Chính phủ. Vừa phát triển kinh tế, vừa tham gia kháng chiến, nhân dân Hữu Lộc đã thực hiện tốt khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, đóng góp từng bát gạo, đồng tiền để nuôi quân đánh giặc. Đời sống nhân dân tuy có nhiều khó khăn nhưng thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”, nhân dân hết sức tự giác đóng góp sức người, sức của cho chiến trường.
Trên mặt trận văn hóa: Được cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm và các đoàn thể tích cực vận động, phong trào bài trừ các tệ nạn mê tín dị đoan, đồng bóng cơ bản được xóa bỏ. Tình trạng ăn uống linh đình, tốn kém trong ma chay, cưới hỏi cũng được hạn chế đến mức thấp nhất. Các đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ đã đứng ra tổ chức đám cưới cho các đôi nam nữ với những hình thức tươi vui và tiết kiệm. Một số cặp vợ chồng đã tự nguyện dành số tiền cưới để giúp “quỹ kháng chiến” mua sắm vũ khí đánh giặc
(1).
Phong trào văn hóa - văn nghệ phục vụ công cuộc chiến đấu và sản xuất cũng được đẩy mạnh. Toàn xã đã lập được một đội văn nghệ gồm 20 người. Đội vừa tổ chức biểu diễn văn nghệ vừa làm công tác thông tin, cổ động, tuyên truyền phục vụ kháng chiến. Ngoài các vở như: Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa, đội còn dàn dựng các vở về Trần Hưng Đạo, Đội Cung, Lê Lợi… Các buổi biễu diễn thu hút được đông đảo quần chúng đến xem và được hoan nghênh nhiệt liệt.
Những hoạt động văn hóa, văn nghệ của Quỳnh Xuân lúc bấy giờ vừa có tác dụng động viên, giáo dục tinh thần, ủng hộ kháng chiến trong dân chúng, vừa tạo được nguồn ngân sách để hoạt động.
Công tác y tế tuy còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nhưng các đồng chí y tá, hộ sinh lúc đó đã tận tình vận động bà con ăn chín, uống sôi, cách phòng trừ dịch bệnh. Cơ sở của trạm y tế trong chín năm kháng chiến được đặt ở Giếng Năn (nay thuộc địa phận xã Quỳnh Văn) do ông Hồ Tế phụ trách và chị Báu (người Quỳnh Phương) làm công tác hộ sinh. Tuy cơ sở vật chất còn nghèo nàn, thiếu thốn nhưng với tấm lòng nhiệt tình và lương tâm của người thầy thuốc, các anh, chị đã góp phần giải quyết được nhiều khó khăn cho đồng bào địa phương khi họ đau ốm, sinh nở…
Phong trào làm sạch làng, tốt ruộng được phát động mạnh mẽ trong dân chúng, đã góp phần làm hạn chế các ổ dịch bệnh. Tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” không còn xẩy ra trầm trọng như thời thuộc Pháp nữa.
Từ kết quả của phong trào xóa nạn mù chữ trong những năm đầu sau cách mạng tháng Tám, đến giữa cuộc kháng chiến chống Pháp, công tác Bình dân học được đẩy mạnh, tại Quỳnh Xuân đã mở được một trường Tiểu học tại Đình Đoài, thu hút được nhiều thanh. thiếu niên theo học. Bên cạnh đó, công tác bình dân học vụ cho các đối tượng lớn tuổi tiếp tục được duy trì một cách đều đặn và đi vào nề nếp. Vượt qua muôn vàn khó khăn, Quỳnh Xuân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xóa nạn mù chữ.
Kết quả của phong trào thi đua ái quốc, các đoàn thể quần chúng ngày càng được củng cố vững mạnh và góp phần đắc lực vào việc thực hiện các nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Để giáo dục đoàn viên, các cơ sở đoàn thanh niên đã có sáng kiến lấy tên các vị anh hùng dân tộc như: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Đội Cung, Trần Phú…để đặt cho tổ chức mình. Giữa các đoàn thể thanh niên, phụ nữ và các đoàn thể khác cũng thường xuyên phát động thi đua với những hình thức thưởng phạt rất nghiêm minh (huy hiệu làm bằng một dải vải đỏ, có đính 5 ngôi sao bằng vàng) và các hiện vật.
Phát triển kinh tế - xã hội trong chín năm kháng chiến đã củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp kháng chiến của nhân dân nhất định thắng lợi. Đồng thời tạo nên sức mạnh cho cán bộ và nhân dân xã nhà vươn lên lập được nhiều thành tích trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để bảo vệ quê hương, đất nước.
Từ giữa năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước sang giai đoạn tổng phản công. Tháng 9 -1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 -1954, quân và dân ta đã chủ động mở hàng loạt các chiến dịch tấn công trên nhiều hướng như: Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Bắc Tây Nguyên.... qua đó ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó. Trên chiến trường Điện Biên Phủ, quân đội ta đã chiến đấu dũng cảm, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, tạo đà cho việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hoà bình ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta kết thúc thắng lợi.
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Quỳnh Xuân (Chỉ tính Phường Quỳnh Xuân hiện nay) đã có nhiều đóng góp sức người, sức của hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Bắc, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến. Quỳnh Xuân đã có hơn 50 thanh niên gia nhập quân đội, trong đó có 13 đồng chí đã anh dũng hi sinh trên các chiến trường, 4 đồng chí là thương binh các loại. Máu xương của những người con quê hương Quỳnh Xuân đã góp phần tô thắm lá cờ quyết chiến, quyết thắng của quân đội nhân dân Việt Nam. Toàn xã có 1.234 lượt người đi dân công, phục vụ các chiến dịch
(1). Nhiều anh chị em dân công đã ngã xuống trên những con đường đưa hàng ra mặt trận
(2). Để đưa được một đoàn dân công lên đường đi tiếp vận, dân làng Quỳnh Tụ, Xuân Hòa, Xuân An, … đã phải thức trắng đêm để chuẩn bị quang gánh, thuốc men, lương thực cho anh chị em dân công. Các cụ đẵn tre, đan sọt, đẽo đòn ghánh. Các mẹ, các chị xay thóc, dã gạo, thổi xôi, đùm bánh… kịp cho anh chị em dân công lên đường. Gia đình nào có người đi dân công mà nhà hết tiền, hết gạo bà con chòm xóm tổ chức đỡ đần. Ai chưa cấy dắm xong có bà con đến giúp đỡ. Các Chi đoàn thanh niên tổ chức lao động gây quỹ để hoạt động và tham gia các phong trào đóng góp cho kháng chiến. Có đợt Chi đoàn Nguyễn Trãi đã ủng hộ cho kháng chiến 800 đồng, chi đoàn Ngô Quyền 600đ v.v.
Với tinh thần tương thân, tương ái, cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, nhân dân Quỳnh Xuân qua 9 năm kháng chiến luôn luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu đóng góp về quân số, lương thực và thực phẩm cho tiền tuyến, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của chi bộ, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng "kháng chiến toàn dân, toàn diện", "trường kỳ kháng chiến, kháng chiến nhất định thắng lợi" và "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Chấp hành nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, huyện. Qua từng thời kỳ cách mạng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo để đề ra những chủ trương phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Từ đó khơi dậy được tinh thần yêu nước, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Qua cuộc kháng chiến, chi bộ không ngừng phát triển, trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, đảng viên có ý chí kiên cường, chịu đựng hi sinh gian khổ, luôn tiên phong gương mẫu đi đầu các phong trào.
CHƯƠNG IV
QUỲNH XUÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
I. KHÔI PHỤC KINH TẾ, TIẾN HÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1954 - 1964)
1. Chống cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, khôi phục kinh tế, hn gắn vết thương chiến tranh
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ (7/1954). Hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, nhân dân ta phấn khởi bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Nhưng miền Nam, nửa đất nước thân yêu đang tạm thời chịu sự kiểm soát của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng với bè lũ tay sai vẫn âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới. Miền Bắc được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cơ bản hoàn thành và chuyển sang giai đoạn Cách mạng xã hội Chủ nghĩa. Miền Nam tạm thời chịu sự kiểm soát của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, nên cách mạng miền Nam phải tiếp tục Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, tiến lên cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngày 25/5/1954, xã Quỳnh Xuân được chia làm 3 xã: Quỳnh Tùng, Quỳnh Văn, Quỳnh Liên. Tên xã đã định, theo đó tài sản, địa giới cũng được hoạch định. Chi bộ, chính quyền, đoàn thể được thiết lập mang tên xã mới.
Tuy thoát khỏi ách áp bức của thực dân Pháp nhưng Quỳnh Xuân phải đối mặt với thiên tai, trong năm 1954, trời hết hạn hán lại mưa lũ liên tiếp xảy ra, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản của người dân. Thu hoạch giảm mạnh, năng suất thấp (trung bình chỉ đạt khoảng 1,2 tấn/ha). Đời sống Nhân dân cực kỳ khó khăn, tình trạng đói kém kéo dài. Mặt khác, để gây mất ổn định ở niền Bắc, chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã cấu kết với bọn đội lốt tôn giáo ráo riết dụ dỗ, vận động đồng bào Thiên chúa giáo ở miền Bắc di cư vào Nam, với luận điệu: "Chúa đã vào Nam, ở lại miền Bắc là mất đạo". Ở Quỳnh Xuân, tại hai làng Xuân An, Sông Lô nhiều gia đình giáo dân nghe theo lời dụ dỗ, dọa nạt của địch, đã bán hết nhà cửa, của cải, bỏ ruộng vườn, làng xóm, kéo nhau lên chính quyền đòi cho tự do di cư đi vào Nam, tình hình xã hội ở địa phương có nhiều diễn biến phức tạp.
Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện, cấp ủy và chính quyền Quỳnh Xuân cũng như các xã có đồng bào theo đạo thiên chúa đã phân công cán bộ, đảng viên xuống từng thôn, xóm vận động, thuyết phục giáo dân giúp họ nhận thấy rõ âm mưu thâm độc của địch, yên tâm ở lại quê hương làm ăn. Đồng thời Chi bộ Đảng vận động đồng bào bên “lương” góp tiền, góp vật liệu … giúp đỡ các gia đình giáo dân dựng lại nhà cửa, tổ chức lại cuộc sống. Nhờ vậy, nhiều giáo dân đã yên tâm ở lại quê hương tiếp tục làm ăn sinh sống.
Cùng với công tác chống địch cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, từ tháng 9/1954, Quỳnh Xuân cũng khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện vật chất và tinh thần để đón cán bộ và chiến sỹ miền Nam tập kết ra Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ. Tuy nhà cửa và hoàn cảnh kinh tế của đại đa số nhân dân trong lúc này còn rất nhiều khó khăn nhưng với tinh thần và tình cảm "Nam - Bắc một nhà" gia đình nào cũng tự nguyện xin đón những người con quê hương miền Nam tập kết ra Miền Bắc về ăn, nghỉ ở nhà mình. Chính quyền, các đoàn thể quần chúng giành những điều kiện tốt nhất để đón cán bộ, chiến sỹ đồng bào Miền Nam, sớm ổn định, hòa nhập vào cuộc sống lao động, sinh hoạt chung trong xã.
Đế quốc Mỹ và tay sai cố tình phá hoại Hiệp định Giơnevơ, âm mưu chiếm đóng lâu dài miền Nam, những chiến sỹ và con em miền Nam tập kết ra Bắc được Đảng, Nhà nước chuyển về xây dựng nông trường Trịnh Môn. Nhiều người trong số họ đã được địa phương giúp đỡ xây dựng gia đình, làm nhà cửa, ổn định cuộc sống lâu dài trên vùng quê mới.
2.Hoàn thành cải cách ruộng đất (1955 - 1957)
Trong kháng chiến chống Pháp (giai đoạn 1949 - 1953) và những ngày đầu hòa bình, Nhân dân Quỳnh Xuân đã từng bước đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức nhưng chưa thực hiện triệt để nên phần lớn ruộng đất còn nằm trong tay địa chủ và phú nông. Sau khi niền Bắc được giải phóng, Đảng ta quyết định tiến hành cải cách ruộng đất nhằm thực hiện ước mơ ngàn đời “người cày có ruộng” trở thành hiện thực. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VII (3/1955) chỉ rõ: "Trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất... đẩy mạnh cải cách ruộng đất đã đoàn kết được đại đa số nhân dân, củng cố được công - nông liên minh, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng; mới có thể khôi phục kinh tế một cách nhanh chóng và có thêm điều kiện để tăng cường quân đội nhân dân, củng cố quốc phòng"
(1).
Thực hiện chủ trương của trên, đầu năm 1955, ba huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành được chọn làm điểm chỉ đạo thí điểm tiến hành cải cách ruộng đất đợt 4 của tỉnh Nghệ An. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng đại của Đảng ta nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho người cày. Vì thế, cuộc cải cách ruộng đất đã diễn ra quyết liệt, thu hút được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp bần, cố nông.
Tại Quỳnh Xuân, cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu từ tháng 3/1955, Đội cải cách về xã, phân công cán bộ về từng thôn, xóm tiến hành ba cùng: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với bần, cố nông, "bắt rễ, xâu chuỗi" trong bần, cố nông và người lao động để khảo sát tình hình và hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống giai cấp địa chủ. Cuộc cải cách ruộng đất đã thu được kết quả lớn: 127 mẫu ruộng, 6 căn nhà, 13 con trâu và hàng trăm nông cụ sản xuất để chia cho nông dân lao động. Nông dân thực sự trở thành người chủ nông thôn. Ruộng đất về tay dân cày, niềm mơ ước ngàn đời của người nông dân được thực hiện. Đó là thắng lợi, thành tựu to lớn của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã mắc phải một số sai lầm đáng tiếc, đó là việc quy kết thành phần địa chủ, phú nông không dựa vào tiêu chuẩn phân định thành phần giai cấp do Đảng và Chính phủ đã ban hành; Nhiều nơi quy kết tràn lan, miễn là đạt “chỉ tiêu” do đội cải cách đề ra, gây hoang mang dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Một số cán bộ, đảng viên có nhiều thành tích, công lao trong sự nghiệp cách mạng trước đó, đến cải cách ruộng đất đã bị đấu tố, bị tù đày hoặc bị tịch thu tài sản…
Nhận rõ những sai lầm phạm phải trong chỉ đạo cải cách ruộng đất, tháng 4/1956, Đảng đã ra Chỉ thị sửa sai. Ngày 18/8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào và toàn thể cán bộ, đảng viên. Sau khi chỉ rõ những thắng lợi cùng những sai lầm phạm phải trong cải cách ruộng đất. Người đề ra phương hướng sửa sai và kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tăng cường đoàn kết xung quanh Đảng và Chính phủ.
Thực hiện chủ trương của cấp trên, Quỳnh Xuân tiến hành việc sửa sai kịp thời, nghiêm túc. Một bộ phận đáng kể trong số những người bị quy thành địa chủ được xem xét, sửa sai thành phần. Những người bị xử lý sai được khôi phục quyền lợi, danh dự, công tác. Nhiều cán bộ, đảng viên có công với cách mạng được phục hồi đảng tịch, được tham gia chính quyền, đoàn thể và tiếp tục cống hiến công sức và trí tuệ vào việc xây dựng quê hương, đất nước. Công tác sửa sai nhanh chóng hoàn thành, trật tự, xã hội ổn định, khối đoàn kết toàn dân được giữ vững, tạo niềm tin vững chắc của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền.
Thắng lợi của cuộc cải cách và kết quả của việc sửa sai đã tạo ra một động lực mới, người dân hăng hái khai hoang, tham gia cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh tăng gia phát triển sản xuất, chăn nuôi, vì thế năng suất không ngừng nâng lên, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đó là tiền đề để Quỳnh Xuân thực hiện thắng lợi Kế hoạch 3 năm (1958-1960) về cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa.
3
. Công cuộc xây dựng HTX nông nghiệp (1958 - 1964)
Bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, Chi bộ và chính quyền tập trung vào việc vận động xây dựng các tổ đổi công. Tính đến cuối năm 1958, toàn xã thành lập được 28 tổ đổi công. Nhờ có tổ đổi công nông dân đã giúp nhau giải quyết được nhiều khó khăn, về sức kéo, về giống và bảo đảm kịp thời vụ. Các tổ đổi công đã giúp nhau khai hoang được trên 100 héc ta dọc các triền núi Mù U, Lèn Chùa và cải tạo được hàng chục héc ta đất chua mặn ở vùng Cầu Hủ, Đồng Diệc, Đồng Chào v.v.
Tháng 12/1958, Hội nghị lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương lớn: "Đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa; đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân", khâu chính là cải tạo và phát triển nông nghiệp.
Những năm 1959-1960, sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện khí hậu và thời tiết không bình thường. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, sâu phá hoại rừng thông ở vùng Hoàng Mai rất nghiêm trọng. Nếu không kịp thời diệt sâu thì hàng ngàn hécta thông có giá trị kinh tế cao và làm lá phổi cân bằng môi trường sinh thái. Thực hiện Thông tri 252 ngày 23/12/1959 của Huyện ủy, Quỳnh Xuân đã phối hợp với Trạm lâm nghiệp, đồng thời huyện huy động giáo viên, học sinh phối hợp với thanh niên các xã đến rừng thông để diệt sâu, nhờ vậy rừng thông đã được cứu sống. Năm 1962, nắng hạn 172 ngày liền gây khó khăn cho sản xuất.
Quỳnh Lưu - huyện có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, vì thế nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Cuộc vận động lớn đã tập trung sự chỉ đạo của các ngành, các cấp và của các Đảng bộ trong huyện. Tại Quỳnh Xuân, hàng trăm gia đình nông dân đã tự nguyện viết đơn gia nhập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Hầu hết cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng và Nhà nước, đi đầu trong công cuộc xây dựng hợp tác xã.
Các cấp ủy Đảng, đoàn thể vừa kiên trì thuyết phục, vận động, vừa thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt như: “khoanh vùng, đổi ruộng”, kỷ luật những cán bộ, đảng viên không chấp hành chủ trương vào hợp tác xã. Việc xây dựng hợp tác xã ở hai xóm giáo dân Xuân An và Sông Lô diễn ra chậm hơn do ở đây bị một số phần tử phản động xúi giục và khống chế nên giáo dân không dám viết đơn gia nhập hợp tác xã. Để vận động giáo dân vào hợp tác xã. Chi bộ, chính quyền đã cử một số cán bộ, đảng viên xuống địa bàn cùng ăn, ở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, nói rõ để bà con hiểu rõ, hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thành lập hợp tác xã đồng thời dựa vào những giáo dân cốt cán như: Hồ Đạo, Hồ Bá, Nguyễn Tiêu, Vũ Định v.v… để tổ chức xây dựng các hợp tác xã ở hai xóm; kiên quyết xử lý nghiêm những phần tử phản động. Trải qua những tháng, ngày kiên trì vận động, thuyết phục của cán bộ chính quyền, đoàn thể, đến cuối năm 1960, Xuân An và Sông Lô đã thành lập được hai hợp tác xã nông nghiệp với sự tham gia của đông đảo giáo dân. Nhờ sự nổ lực của giáo dân, sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo và nhân dân toàn xã, các hợp tác xã của đồng bào theo đạo Thiên Chúa ngày càng được củng cố và mở rộng về quy mô; đồng đất được cải tạo; năng suất lúa ngày càng cao...
Năm 1961, toàn xã xây dựng được 13 hợp tác xã nông nghiệp gồm: Đồng Cẩm, Đại Sơn, Yên Bái, Đông Thái, Yên Thượng, Yên Xuân, Yên Ninh, Đông Ninh, Đông Xuân, Độc Lập, Vinh Quang, Vinh Hoa, và Tiến Bộ.
Cùng với xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán được thành lập nhằm mua lương thực, thực phẩm để chuyển lên huyện và mua hàng tạp hóa về phục vụ nhu cầu của nhân dân.
Thắng lợi của công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp, trong những năm đầu đã có tác dụng thúc đẩy phong trào sản xuất phát triển, thúc đẩy các hoạt động khác ở địa phương.
Ruộng đất được công hữu, tạo thuận lợi cho việc quy hoạch đồng ruộng. Dù là vùng bán sơn địa nhưng đồng ruộng Quỳnh Xuân không còn cảnh manh mún, bờ cao, bờ thấp như trước. Các đội chuyên về giống, về thủy lợi cũng được hình thành góp phần làm tốt khâu chọn giống và phòng trừ sâu bệnh v. v… Nhiều hộ xã viên sau vài ba vụ sản xuất đã làm được nhà ngói, sân nề. Đời sống của đa số hộ nông dân khá hơn trước lúc gia nhập hợp tác xã. Quan hệ sản xuất mới được hình thành, lề lối làm ăn tập thể từng bước phát huy tác dụng, nhất là việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, nhờ vậy năng suất, diện tích lúa trên địa bàn tăng lên đáng kể.
Trong quá trình xây dựng hợp tác xã, việc các hộ gia đình viết đơn vào các hợp tác xã một cách ồ ạt "theo phong trào" đã vi phạm nguyên tắc dân chủ. Vì vậy trong thời gian ngắn, phong trào xây dựng hợp tác xã còn mang nhiều yếu tố chủ quan, chưa hiểu thấu đáo về cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, chú trọng nhiều đến việc giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất như: Công hữu hóa trâu, bò, công cụ sản xuất... và chưa thực sự chú ý đến công tác quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã.
Đi đôi với việc tổ chức các hợp tác xã nông nghiệp, phong trào làm thủy lợi, đẩy mạnh khai hoang, phục hóa cũng được Đảng và chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1958-1959, tham gia chiến dịch tiếng trống Xô - Viết do tỉnh phát động, cuộc vận động lớn đã tập trung vào lao động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, là cơ sở để Quỳnh Xuân đẩy mạnh việc xây dựng tổ đổi công, cải tiến kỹ thuật, tiến tới xây dựng các hợp tác xã.
Năm 1958, Quỳnh Xuân đã tham gia hàng trăm ngày công đắp đập Khe Bung (Hoàng Mai), lấy nước tưới cho một số diện tích khu vực đập tràn La Man do huyện phát động. Cao trào làm thủy lợi mạnh nhất là từ năm 1963, làm kênh tiêu úng Bình Sơn từ xiphông sông 17 chảy qua nhiều xã, trung tâm vựa lúa của huyện, xây dựng đập An-Ngãi
(1) (đập Ba Tùy thuộc Quỳnh Văn, nay là Quỳnh Tân), ngăn 11 con suối lớn, tạo thành hồ để tưới nước cho hàng ngàn hécta ruộng ở phía Bắc huyện. Nhân đà khí thế đang sôi nổi, xã lấy lực lượng 300 người làm đập An Ngãi hoàn thành về đắp đập khe Dứa, chi trong một thời gian ngắn đã hoàn thành. Đội quân làm thủy lợi Quỳnh Xuân, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vượt chỉ tiêu, là một trong những địa phương đầu tiên được ghi vào
lá cờ luân lưu của Bác Hồ tặng huyện Quỳnh Lưu.
Đi liền với việc khai hoang, mở rộng diện tích, công tác vận động nhân dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới luôn được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Bởi vì với bình quân diện tích không quá 2 sào/1 nhân khẩu, trình độ canh tác lạc hậu dù cố gắng thâm canh, người dân lao động cũng khó có mức sống khá. Trong lúc đó, nhiều vùng đất ở khu vực núi Mù U, Tùng Lĩnh v.v.. chưa được tận dung khai thác. Để có một người dân chuyển đến vùng đất hoang hóa, Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể địa phương phải trải qua bao khó khăn, gian khổ. Bởi bà con đã bao đời gắn bó với nơi chôn rau, cắt rốn dù nơi đó đất chật, người đông, đời sống lam lũ. Nhưng với trách nhiệm trước cuộc sống của nhân dân lao động, Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể đã kiên trì vận động cán bộ và nhân dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Kết quả đến năm 1962, đã có 100 hộ dân chuyển lên thành lập nông trang Lê Lợi và các nông trang, cơ sở ban đầu của xã Quỳnh Tân hôm nay.
(1)
Để tạo lập nên những vùng quê mới, cán bộ và nhân dân đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt khi phải rời xa quê hương cũ, biết bao những khó khăn gian khổ trong buổi đầu xây dựng quê hương mới.
Trong công tác di dân, xây dựng các vùng kinh tế có sự đóng góp của những cán bộ, đảng viên như các đồng chí: Lê Hữu Hộ (nguyên Chủ tịch Ủy ban hành chính xã), Nguyễn Cảnh Quỳ, Nguyễn Đình Nhậm, Nguyễn Đình Khuyến v.v… Sự có mặt của các đồng chí ở vùng đất mới đã động viên, cổ vũ được những người khác yên tâm ở lại góp công, góp sức xây dựng Quỳnh Tân, quê hương mới ngày thêm giàu đẹp.
Công cuộc tập thể hóa trong nông nghiệp và những kết quả của các mặt sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp đã làm cho đời sống của đại đa số nhân dân ngày càng được cải thiện. Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế cũng có những bước chuyển biến đáng kể.
Năm 1961, trường cấp 1 được xây dựng. Ngày đầu thành lập tuy cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, nhưng đã có nơi cho hàng trăm con em nhân dân lao động học tập.
Công tác y tế, vệ sinh phòng bệnh, được chính quyền và các đoàn thể chăm lo, quan tâm đứng mức. Trạm Y tế được xây dựng năm 1955, tại giếng Đồng nay thuộc khối 18 (được tách từ hộ sinh Quỳnh Tùng giếng ao xã Quỳnh Văn) lúc đầu có tên gọi nhà hộ sinh. Trạm có 5 gian, gồm: 1 phòng trực, 1 phòng sinh, 1 phòng trực sinh, 2 phòng sản phụ nằm sau sinh.
Năm 1964, xây dựng thêm 1 ngôi nhà 5 gian, gồm: 2 phòng làm kho thuốc đông y, tây y, 1 phòng giao ban, 2 phòng làm công tác điều trị. Trạm Y tế được xây dựng, củng cố, mạng lưới y tế thôn, xóm được xây dựng, mở rộng, thôn nào cũng có cán bộ y tế chăm sóc sức khỏe và phòng dịch cho dân. Các gia đình xã viên hợp tác xã đều đào được giếng, làm hố xí hai ngăn. Các căn bệnh xã hội như: sốt rét, thương hàn, lao phổi, đậu mùa v.v… đã được ngăn chặn kịp thời không để trở thành những ổ dịch ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân.
Phong trào văn hóa - văn nghệ, được đẩy mạnh từ các thôn, xóm; đội văn nghệ được củng cố, thường xuyên tổ chức biểu diễn vào các ngày lễ, tết, các ngày kỷ niệm và đi giao lưu với các đơn vị trong vùng. Xã tổ chức các hoạt động thể dục thể thao như: bóng đá, cờ người, kéo co...
Công tác quốc phòng- an ninh được quan tâm, Đảng bộ và chính quyền đã tập trung vào hai nhiệm vụ trọng tâm:
Một là xây dựng lực lượng dân quân làm nòng cốt trong việc bảo đảm trị an và sẵn sàng chiến đấu chống đế quốc Mỹ và tay sai.
Hai là đấu tranh chống bọn phản động đội lốt tôn giáo, bảo vệ cuộc sống yên lành của bà con giáo dân và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương.
Lực lượng an ninh của trên đã phối hợp với chính quyền kịp thời bắt giữ một số tên phản động ẩn nấp trong hai vùng giáo Sông Lô và Xuân An, làm trong sạch địa bàn, tạo điều kiện cho giáo dân yên tâm sản xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Đảng ủy và chính quyền cũng thường xuyên chăm lo, củng cố lực lượng dân quân, du kích. Chính sách hậu phương quân đội được chú trọng, làm tốt việc cải thiện đời sống gia đình và chăm sóc con liệt sỹ, thương binh; bảo đảm đời sống cho bộ đội phục viên; đón thương binh về làng; quan tâm đến việc học hành của con em thương binh, gia đình liệt sỹ.
Sau sửa sai cải cách ruộng đất, Ủy ban hành chính xã cùng các ban ngành được kiện toàn, bố trí lại cán bộ phù hợp với tình hình mới. Xã đội và Ban công an được củng cố, lực lượng dân quân được biên chế lại. Xã tổ chức Hội nghị phân loại đối tượng, bảo đảm an ninh, trật tự địa phương.
Đảng bộ được củng cố, lãnh đạo nhân dân bước đầu cải tạo XHCN ở nông thôn. Qua phong trào hợp tác hoá, thực hiện ba ngọn cờ hồng ở nông thôn, phong trào làm thỦy lợi, cải tạo đồng ruộng, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến hợp tác xã, thúc đẩy phong trào làm thủy lợi, dời dân khai hoang; đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa - xã hội, từng bước ổn định góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Qua các phong trào xuất hiện nhiều nhân tố tích cực trong thanh niên, phụ nữ và quần chúng nhân dân. Đảng bộ đã bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng XHCN và đạo đức cách mạng, tạo nguồn phát triển Đảng, làm tăng sức chiến đấu và lãnh đạo. Số lượng đảng viên của đảng bộ ngày càng tăng về số lượng, chất lượng được nâng lên. Trước yêu cầu mới của cách mạng, đòi hỏi phải quan tâm giáo dục tư tưởng, học tập lý luận, đảng bộ đã tiến hành chỉnh huấn, nâng cao ý thức làm chủ, nhất quán quan điểm tất cả phục vụ sản xuất, tạo khí thế thi đua sôi nổi, toàn diện.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, đã tạo sức mạnh về vật chất, tinh thần, tạo tiền đề cho Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước, bảo vệ miền Bắc XHCN, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
II. VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, ĐÁNH BẠI ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ (1964 - 1975)
1. Đấu tranh bảo vệ quê hương, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng và Nhà nước đang giành được những thành tựu nhất định. Bất ngờ ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay và tàu chiến ném bon bắn phá một số mục tiêu quan trọng ở Vinh, Cửa Hội Nghệ An và nhiều nơi khác, mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Quỳnh Lưu trở thành trọng điểm luôn luôn bị máy bay, tàu chiến đế quốc Mỹ đánh phá.
Ngày 07/02/1965, đế quốc Mỹ tăng cường leo thang đánh phá miền Bắc. Hầu hết các xã, thị trấn của huyện Quỳnh Lưu đều bị địch ném bom, trọng điểm là ga Hoàng Mai, Cầu Giát, các xã ven đường Quốc lộ 1A, ven biển. Đặc biệt ngày 17/02/1965, địch cho ba tàu chiến thuộc Hạm đội 7, một giờ liền, liên tục bắn vào xã Quỳnh Lập. Ngày 12/6/1965, chúng cho nhiều tốp máy bay phản lực các loại đánh hủy diệt Khu điều trị phong Trung ương đóng tại Quỳnh Lập trong nhiều giờ, giết hại 200 người, trong đó có cán bộ, bệnh nhân và công nhân viên và 100 người bị thương. Gần 2.000 bệnh nhân và cán bộ y tế phải lánh nạn vào các hang động, di dời lên rừng núi...
Trước tình hình đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XI nhận định: Trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân, cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn của cả nước, nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc lúc này là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Đồng thời quyết định: kịp thời chuyển hướng xây dựng phát triển kinh tế, tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới. Khẩu hiệu hành động là:
"Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
Ngày 21-1-1965, Tỉnh Ủy Nghệ An thông qua đề án: “Tình hình, nhiệm vụ chuyển hướng xây dựng kinh tế 2 năm 1965-1967”. Đề án chỉ rõ một số tình huống có thể xẩy ra:
1. Kế hoạch có thể bị xáo trộn, kinh tế bị hỗn loạn bước đầu, đời sống nhân dân, nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không sớm chuẩn bị hậu phương.
2. Do đặc điểm địa hình rộng và phức tạp, nên Nghệ An có thể bị địch chia cắt ra thành nhiều vùng, cô lập với các tỉnh. Trong điều kiện bị chia cắt và cô lập, việc xây dựng và phát triển kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là sản xuất và bảo đảm đời sống nhân dân.
3. Nghệ An vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương, phải là nơi cung cấp trực tiếp nhân lực, vật lực cho quốc phòng, nếu không chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp thì không thể đáp ứng được nhu cầu cách mạng”
([1]).
Quán triệt Nghị quyết của Tỉnh và Trung ương, nhiệm vụ được đặt ra trong lúc này Huyện ủy Quỳnh Lưu đề ra các nhiệm vụ cụ thể:
1. Tổ chức chiến đấu cũng như phòng tránh máy bay địch ném bom, bắn phá nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời bảo vệ sản xuất.
2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất là các công trình thủy lợi, đồng thời đẩy mạnh thâm canh.
3. Xúc tiến việc điều chỉnh sức lao động giữa các vùng trong huyện, ra sức nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp
([2]).
Khâu then chốt đều hướng tới xây dựng hậu phương vững mạnh, bảo đảm cuộc sống cho nhân dân, vừa chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho yêu cầu lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời sẵn sàng chi viện sức người, sức của ngày càng nhiều cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của trên, Đảng bộ đã căn cứ vào thực tế của địa phương, thống nhất ý chí hành động, đề ra phương hướng nhiệm vụ cụ thể, trong đó tập trung hướng sự lãnh đạo, chỉ đạo sang thời chiến, khẩn trương triển khai công tác huấn luyện, thành lập trung đội chiến đấu, tăng cường việc bố phòng, canh gác, sẵn sàng đánh trả máy bay địch. Đồng thời đẩy mạnh sản xuất, đưa tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào nông nghiệp, quan tâm công tác làm thủy lợi, vận động nhân dân tích cực tham gia các công trình của huyện, tỉnh phát động, làm tốt nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Đặc biệt các kỳ Đại hội của Đảng bộ, đã đề ra các chủ trương, nhiệm vụ mang tính lâu dài, xuyên suốt phù hợp với từng thời điểm trong đó tập trung vào những nhiệm vụ:
1. Chủ động phòng tránh địch và giành thắng lợi.
2. Nâng cao tinh thần cảnh giác toàn dân, toàn diện, chống mọi hình thức xâm nhập trên biển, trên không của đế quốc Mỹ vào địa bàn xã.
3. Đẩy mạnh lao động sản xuất, thâm canh tăng năng suất, ổn định đời sống, chi viện đắc lực, sức người, sức của cho chiến trường.
4. Giữ vững mạch máu giao thông, đảm bảo công tác vận chuyển hàng hóa từ Bắc vào Nam.
Bom đạn của đế quốc Mỹ gây ra nhiều tội ác trên mảnh đất Quỳnh Xuân. Tính từ ngày 05/8/1964 - 31/12/1972, đế quốc Mỹ đã đánh vào địa bàn 342 trận lớn nhỏ, có ngày địch đánh phá 8 trận liên tục vào 4 cao điểm và hai hang động chứa hàng quân sự. Đặc biệt ngày 10/7/1968, địch đã ném bom, tàn phá khốc liệt vào các đội ( hiện nay là các khối 3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,14) làm 9 người dân bị thiệt mạng, 15 người bị thương, 20 nóc nhà bị đổ nát, phá hủy nhiều diện tích hoa màu, nhiều trâu bò, lợn và gia cầm bị chết.
Từ tháng 7/1968, đế quốc Mỹ dùng máy bay ném bom xuống địa bàn nhiều bom nổ chậm, bom từ trường và nhiều loại bom đạn khác nhằm gây thiệt hại lâu dài. Trung đội rà phá bom nổ chậm do đồng chí Nguyễn Đình Văn phụ trách không sợ hy sinh gian khổ đã rà phá được 24 quả bom từ trường, trên tuyến đường Quốc lộ 1A, giải phóng cho trên 300 chiếc xe vừa chở quân, vừa chở hàng quân sự vào chiến trường được thông suốt, trong trận này đồng chí Nguyễn Đình Văn đã hi sinh lúc tháo gỡ quả bom thứ 24.
Đế quốc Mỹ đã đánh vào địa bàn 62 trận, trong đó có 24 trận ban ngày và 38 trận vào ban đêm với 72 quả bom phá, 320 quả bom sát thương, hơn 9000 quả bom bi, 26 quả bom từ trường và trên 560 quả đạn đại bác các loại v.v
(1)…Bom đạn của kẻ thù đã gây nên bao tang tóc đau thương cho nhân dân Quỳnh Xuân. Năm mươi người dân và chiến sỹ bộ đội, dân quân đã ngả xuống trên mảnh đất Quỳnh Xuân vì bom đạn của đế quôc Mỹ. Có gia đình bị giết cả mẹ và con, nhiều người khác bị tàn phế, thương tật, hàng chục ngôi nhà của dân bị thiêu hủy. Đặc biệt năm 1972, chỉ trong một thời gian ngắn địch đã đánh vào địa bàn. Ngày 5/5/1972, địch đánh vào trận địa Cồn Thành, một chiến sĩ hy sinh là Khương Minh Sắn quê ở thôn Căng thượng, xã Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, được địa phương mai tánh gần nghĩa trang huyện, sau đó báo tin cho gia đình chuyển hài cốt về quê. Tháng 6/1972, địch đánh vào trận địa ở Mồ Giấy làm 7 chiến sĩ bị thương. Ngày 12/ 7/1972, địch đánh vào Trạm chế biến nhựa thông của Lâm trường Quỳnh Lưu làm 3 người chêt: Cao Xuân Tri, Hồ Khắc Sinh, Lê Tiến Thục. Ngày 16/8/1972, chúng đánh vào cồn Hộ Bành (nay thuộc xã Quỳnh Tân) lúc nhân dân được xã huy động đi phát băng để trồng sắn, làm gia đình bà Nguyễn Thị Liệu chết 4 người. Ngoài ra còn có một số người đi làm bị chết: Lê Thị Minh, Nguyễn Thị Sự, Nguyễn Thị Thư. Ngày 12/9/1972, chúng đánh vào trận đia pháo cao xạ Nguyễn Viết Xuân đóng tại cồn Đồng Càn làm 9 chiến sĩ hy binh, 19 chiến sĩ bị thương, số chiến sĩ hy sinh được địa phương phối hợp với đơn vị mai táng chu đáo gần nghĩa trang của huyện, số bị thương được hàng chục dân quân chuyển tải vào trạm xá xã, chiều tối chuyển xuống bệnh viện huyện đóng tại Quỳnh Yên. Ngày 26/9/1972, địch đánh vào đội 6 (nay là khối 8) làm chết 5 người.
Căm thù giặc sâu sắc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân đã đoàn kết, bám trụ vững chắc, vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu, bảo đảm: "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", chi viện đầy đủ cho miền Nam. Để tập trung chỉ đạo sản xuất, và chiến đấu, toàn Đảng, toàn dân luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, chống trả lại kẻ thù bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, đã tập trung xây dựng lực lượng, trong đó:
Lực lượng dân quân du kích được tổ chức thành 4 đại đội với tổng số 350 đồng chí. Một trung đội trực chiến bằng súng bộ binh có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị pháo cao xạ bắn máy bay.
Một đại đội cơ động mạnh gồm 70 đồng chí, có nhiệm vụ thường xuyên đảm bảo hàn gắn vết thương trên các trục đường giao thông.
Hai đại đội gồm 160 đồng chí, có nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa quân sự từ xe tàu vào kho và từ kho xuống các thuyền đi các hướng.
Một trung đội biên chế 30 đồng chí, có nhiệm vụ đào bới, tải thương.
20 tổ trinh sát, đóng chốt ở các cao điểm, có nhiệm vụ báo động cho nhân dân khi có máy bay vào oanh tạc địa bàn và những xã phụ cận.
13 trung đội, được bố trí theo đơn vị đội sản xuất, lực lượng này vừa đảm nhận công tác chiến đấu, phục vụ chiến đấu, vừa là lực lượng chủ lực trong sản xuất và bảo đảm giao thông, thủy lợi.
Lực lượng dân quân, luôn nằm trong tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu, cứu hàng hóa, phối hợp cùng tiểu đoàn 12 Nguyễn Viết Xuân, và tiểu đoàn 214 pháo cao xạ đóng trên địa bàn bắn rơi một máy bay F105 và một máy bay F4H. Ngày 10/5/1972, địch dùng 16 chiếc máy bay, đánh 3 trận trong ngày vào kho hàng quân sự, 2 đại đội bốc xếp được điều động ứng cứu, sơ tán hàng ra khỏi khu vực đánh phá, đồng thời huy động nguyên vật liệu dựng các kho tạm để cất dấu số hàng đã được sơ tán an toàn.
Trên mặt trận phục vụ chiến đấu, quân và dân đã tham gia hàng vạn ngày công vào việc đảm bảo giao thông và vận chuyển hàng hóa ra phía trước. Do nằm trên các tuyến giao thông thủy, bộ huyết mạch cho việc tham gia bảo đảm giao thông thông suốt trong mọi tình huống là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quân và dân trong những năm chống Mỹ cứu nước. Quân và dân Quỳnh Xuân đã giành 3 triệu ngày công đào đắp 2,6 triệu m
3 đất đá, vận chuyển, bốc xếp trên 6 triệu tấn hàng hóa các loại, xây dựng 12 lô cốt bằng bê tông phòng thủ trên biển, đóng góp hàng chục triệu cây tre, 5.000 cọc bạch đàn rào 5km đường biển, đào công sự; làm 1.000 bàn chông các loại, đắp 20 trận địa pháo, đào đắp 700 hầm chữ A, 1.400 hố cá nhân, 30 km giao thông hào xung quanh xã. Đồng thời đóng góp nhiều ngày công vào việc mở đường kéo pháo sang Quỳnh Liên v.v.. Trong công việc bảo đảm giao thông, ngoài dân quân là lực lượng nòng cốt còn có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân. Cứ sau mỗi trận đánh phá của máy bay đế quốc Mỹ, mọi người đã kịp lên mặt đường san lấp hố bom, cứu xe, cứu hàng. Do vị trí giao thông thuận lợi, Quỳnh Xuân được chọn làm trạm trung chuyển hàng hóa ở phía Bắc Quỳnh Lưu, khu vực từ dốc Giữa dọc tuyến đường số 1 (nay là khối 16), núi Mù U, trường cấp 1, Cửa Đền và toàn bộ tuyến dân cư từ đội 1 - 6 (nay là khối 8) đều là nơi đặt các kho lương thực, thực phẩm, vũ khí và các nhu yếu phẩm phục vụ chiến trường. Hàng trăm ngôi nhà của dân trong khu vực đó đã được huy động vào việc cất dấu.
Xã thành lập một đội xe thồ 35 người, đảm nhiệm việc vận chuyển hàng hóa từ ga Hoàng Mai đi các cung trạm để vận chuyển hàng. Trong quá trình hoạt động, đội đã vận chuyển được 80 tấn hàng hóa. Nhân dân với đôi vai trần, chân đất đã chuyển hàng ngàn tấn lương thực, đạn dược từ Quỳnh Xuân về kho Diễn Hùng (Diễn Châu) và nhiều địa điểm khác. Pháo sáng, đạn bom, đường xá, vác nặng nhưng vẫn không làm chùn bước chân của lực lượng vận tải.
Với mưu đồ đưa miền Bắc xã hội chủ nghĩa “trở về thời kỳ đồ đá”, ngăn chặn sự chi viện từ Bắc và Nam. Đế quốc Mỹ đã không từ bỏ một thủ đoạn hủy diệt nào mà chúng không áp dụng. Chúng sử dụng tất cả các loại máy bay hiện đại nhất lúc bấy giờ như: F105 (thần sấm), E4H (con ma), B52 (pháo đài bay)…trừ bom nguyên tử chúng chưa kịp dùng ở Việt Nam. Những vũ khí giết người tối tân như: bom lade, bom từ trường…. Chúng không chỉ đánh ban ngày mà đánh phá vào cả ban đêm, không kể thời tiết tốt hay xấu, nắng hay mưa… Chúng không trừ một mục tiêu nào từ cầu lớn nhỏ trên Quốc lộ 1A đến cái cống nhỏ trong đường làng; từ kho đựng hàng đến nhà ở của dân; từ mục tiêu quân sự đến nhà trường, chợ búa, bệnh viện… tất cả đều trở thành mục tiêu đánh phá của máy bay và tàu chiến Mỹ. Đó là những thử thách lớn đối với nhân dân miền Bắc nói chung, nhân dân Quỳnh Xuân nói riêng.
Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ mình, dọc đường làng đều được nhân dân làm các hầm tự tạo, hầm chữ A, chữ U, hầm tròn, hào giao thông... Trường học cơ quan đều có hầm bảo vệ. Có hầm làm việc cho ban lãnh đạo, thuận lợi cho công tác chỉ huy, chỉ đạo, có hầm sơ cứu người bị thương. Trường học có hầm cho thầy, trò trú ẩn, có giao thông hào cho các em sơ tán. Phong trào toàn dân làm hầm quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ diễn ra sôi nổi.
Bên cạnh công tác phòng không trực chiến, thực hiện khẩu hiệu "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, xã đã động viên thanh niên lên đường nhập ngũ. Hàng năm thực hiện tốt các đợt khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Số thanh niên trai tráng cả nam và nữ từ 18 tuổi đến 35 tuổi đều được ghi tên. Từng đợt giao quân đều vượt chỉ tiêu. Có nhiều thanh niên chưa đến tuổi đã xung phong đi bộ đội. Nhiều gia đình có hai, ba người lên đường nhập ngũ. Tính từ năm 1964 - 1975, toàn xã có 1.500 thanh niên đã hăng hái gia nhập quân đội, 45 thanh niên gia nhập vào tổng đội thanh niên xung phong, 2.900 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến. Nhiều con em Quỳnh Xuân đã xuất sắc lập công, nhiều người đã trưởng thành trong chiến đấu trở thành những cán bộ trung, cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Đình Khoa, đại tá được Nhà nước phong tặng Anh hùng LLVT nhân dân, đồng chí Nguyễn Công Tá (Đại tá quân y) được công nhận thầy thuốc ưu tú. Trong công tác khám tuyển nghĩa vụ quân sự, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ, cũng gặp nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng tới nhiều hoạt động của xã nhà. Trước tình hình đó, Huyện ủy Quỳnh Lưu đã quyết định lấy Quỳnh Xuân làm điểm chỉ đạo công tác tuyển quân. Đồng chí Nguyễn Hữu Đợi, Bí thư Huyện ủy đã giành nhiều thời gian cùng Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, đoàm thể và vực dậy phong trào quần chúng.
Trong đợt sinh hoạt chính trị chào mừng ngày thành lập Đảng 3/2/1971, Đảng bộ đã giành trọn 3 ngày, đêm để họp toàn Đảng, toàn dân bàn công tác xây dựng Đảng và phát động phong trào quần chúng. Hang Lèn Hà (gần chùa Bát Nhã) những ngày này không chỉ là chỗ ẩn nấp máy bay, mà còn là nơi diễn ra các cuộc Hội nghị của Đảng bộ và các đoàn thể quần chúng để bàn bạc việc làng, việc nước, việc đánh máy bay, tàu chiến Mỹ, việc giao nạp quân lương. Qua đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, mỗi cán bộ, đảng viên càng nhận thức rõ hơn những yếu kém của mình trong việc vận động nhân dân tham gia sản xuất và phục vụ chiến đấu. Đảng bộ kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức Đảng một số đảng viên yếu kém, không gương mẫu trong việc động viên con em mình thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sau đợt sinh hoạt chính trị, Quỳnh Xuân đã tạo được khí thế đi lên. Công tác tuyển quân không còn gặp những trở ngại như trước, một số người là con trai độc nhất như các anh: Văn Đức Quýnh, Vũ Văn Liên v.v… vẫn xung phong đi bộ đội.
Đợt ra quân đầu xuân 1972, đã có 84 thanh niên đi bộ đội và 102 nam, nữ gia nhập thanh niên xung phong. Đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể tổ chức lễ giao quân trọng thể, trang nghiêm như một ngày hội lớn. Đồng chí Bí thư Huyện ủy và Chủ tịch Ủy ban 42 xã trong toàn huyện Quỳnh Lưu cùng nhiều phóng viên báo chí, đài tỉnh, huyện đã về dự lễ ra quân và tiễn quân thanh niên lên đường đánh Mỹ. Tại buổi lễ long trọng này, Đảng bộ đã tổ chức kết nạp Đảng cho 5 đoàn viên thanh niên ưu tú: Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Thị Hiển,Vũ Minh Miên, Lê Thị Thường, Nguyễn Đình Khang. Việc làm đó đã cổ vũ tinh thần cho người ra đi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như người ở lại tiếp tục xây dựng quê hương.
Sau lễ mít tinh, hai đại đội bộ đội và thanh niên xung phong hàng ngũ chỉnh tề vui vẻ chia tay với đồng bào, đồng chí và người thân vui vẻ lên đường làm nhiệm vụ. Đảng ủy đã cử đồng chí Nguyễn Đình Quý, Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp làm đại đội trưởng và 2 thường vụ đoàn thanh niên làm bộ khung của đại đội thanh niên xung phong.
2. Phát triển kinh tế - văn hóa, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tuyền truyến
Thực hiện phương châm “vừa sản xuất, vừa chiến đấu” với khẩu hiệu "tay cày, tay súng", "mỗi người làm việc bằng hai, tất cả vì miền Nam ruột thịt". Đảng bộ và nhân dân đã tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất, chăn nuôi, giải quyết tốt vấn đề lương thực, thực phẩm.
Trong những năm chiến tranh phá hoại, bom đạn địch đánh phá ác liệt, nhiều diện tích canh tác, hoa màu bị cày xới. Đảng bộ tập trung chỉ đạo nhân dân san lấp hố bom, cải tạo đồng ruộng, kết hợp khai hoang mở rộng diện tích. Cùng với sức lao động của bà con xã viên hợp tác xã nông nghiệp lên khai hoang trồng sắn, hoa màu dọc chân núi Hộ Bành. Đường liên xã, bờ vùng, bờ thửa, được cải tạo, kết hợp giữa kiến thiết ruộng đồng, với việc phát triển giao thông nông thôn, chuyển các cánh đồng từ sản xuất một vụ lên hai vụ. Kết quả gần 200 ha được cải tạo, đưa vào sản xuất năng suất đạt 4,5 tấn/ha. Hàng năm, xã giao nộp vượt chỉ tiêu 10-12%. Phong trào làm thủy lợi được đẩy mạnh. Xã đã tích cực tham gia các công trình của huyện.
Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được mở rộng và phát triển, đảng bộ đã vận động nhân dân khai phá và tận dụng diện tích các bãi phù sa để trồng cói và xây dựng các cơ sở chế biến cói, thu nhập của các hợp tác xã và các gia đình xã viên tăng lên. Bình quân thu nhập của một hợp tác xã, năm 1966 so với năm 1964 tăng 60%, một lao động nông nghiệp tăng 55%.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pa-ri được ký kết, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom miền Bắc. Đảng bộ và nhân dân bắt tay ngay vào việc khắc phục hậu quả đánh phá của bom, đạn Mỹ, phong trào khai hoang, mở rộng diện tích canh tác sôi nổi trong các HTX. Những hố bom, những đám ruộng địch đánh phá đều được khôi phục, san lấp để tiếp tục cày cấy, khơi vét kênh mương, đào đắp bờ vùng, bờ thửa... Đời sống kinh tế của nhân dân được ổn định, xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, nhiều cán bộ HTX trở thành chiến sỹ thi đua nông nghiệp trong phong trào cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất cây trồng, phát triển ngành nghề. HTX đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, ngành nghề như thành lập các trại chăn nuôi trâu, bò, dê, lợn tập trung; các tổ khai thác đá, lò vôi, lò ngói, xây dựng nhà cửa... Đây cũng là thời kỳ huyện mở công trường thủy nông Vực Mấu, cải tạo đồng muối Quỳnh Thuận, xây dựng công trình tình nghĩa nuôi dưỡng thương bệnh binh ở Quỳnh Châu, nghĩa trang liệt sỹ trên địa bàn, xây dựng bệnh viện Quỳnh Lưu; đào đắp và cải tạo hệ thống thủy lợi ở Quỳnh Giang, làm đập ngăn mặn Quỳnh Lập... Nhân dân trong xã chủ yếu là thanh niên đã tham gia hàng vạn ngày công và cung cấp một số vật tư, nguyên vật liệu để hoàn thành các công trình của huyện, thể hiện quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Hợp tác xã mua bán phát huy tốt vai trò mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán huyện để phục vụ nhân dân trong thời chiến, làm tốt việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, vừa cung cấp đầy đủ cho tiền tuyến và nhu cầu của Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất. HTX tiến hành ký hợp đồng với bên có nhu cầu, rồi khoán cho các đội sản xuất, thu mua sản phẩm. HTX ủy thác thu mua lợn nghĩa vụ cho Nhà nước, hàng năm đều vượt mức, tổ chức mổ lợn bán cho cán bộ, cho nhân dân, cung cấp cho các cửa hàng ăn uống của huyện theo kế hoạch. Qua các hoạt động đó, HTX mua bán đã góp phần đấu tranh với tư thương, quản lý thị trường, bình ổn giá cả.
3. Công tác giáo dục - y tế - xã hội được đảng bộ chú trọng quan tâm.
Trường cấp II, được thành lập vào năm học 1965-1966 tại khối 8 ngày nay. Lúc mới thành lập trường chỉ có 1 lớp 5, với khoảng 50 học sinh (chủ yếu là học sinh Quỳnh Xuân và Quỳnh Kim nay thuộc phường Mai Hùng) do thầy giáo Nguyễn Ngọc Túc phường Mai Hùng làm Hiệu trưởng.
Năm 1967, trường cấp II Quỳnh Xuân sát nhập với trường cấp II Quỳnh Văn lấy tên là Trường cấp II Văn - Xuân do thầy Lê Văn Khánh (Thanh Chương) làm Hiệu trưởng.
Trong những năm chiến tranh, Trường cấp 1 – 2, bị địch ném bom phải di chuyển đi nhiều địa điểm khác nhau. Với tinh thần “Tìm nơi mà đặt lớp” “tìm trò mà dạy”, việc học của con em Quỳnh Xuân không bị ngừng trệ mà ngày càng phát triển. Học sinh được sơ tán xa các khu vực trọng điểm quân sự, để các lớp học được đảm bảo an toàn, tỷ lệ học sinh đến trường đạt 100%, các em đều được trang bị mũ rơm, túi thuốc cá nhân. Dưới “
Lớp học nhà hầm”, một thế hệ học sinh đã trưởng thành. Có nhiều người trong số họ đã cầm súng lên đường đi chiến đấu và anh dũng hi sinh vì nền độc lập của dân tộc. Một số có điều kiện theo học tiếp ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp đã trở thành sỹ quan quân đội, kỹ sư, bác sỹ, cán bộ kỹ thuật trung, cao cấp đem trí tuệ và tài năng của mình phục vụ cho đất nước, quê hương.
Có được kết quả đó, thầy và trò Quỳnh Xuân trong những năm tháng của cuộc chiến tranh ác liệt đã vượt biết bao khó khăn, gian khổ, các trò phải “đội bom đi học”; các thầy giáo, cô giáo phải dạy 2-3 ca, phải lặn lội từ khối này sang khối khác để dạy. Cha mẹ, anh, chị học sinh cùng các đồng chí lãnh đạo của xã giành hàng ngàn ngày công và tiền của để dựng trường, lớp cho con em học tập.
Công tác y tế có nhiều tiến bộ.
Năm 1964, Cán bộ hoạt động tại Trạm y tế gồm các ông, bà:
1. Nguyễn Đình Linh - Trạm trưởng.
2. Nguyễn Thị Quý - Hộ sinh.
3. Nguyễn Cảnh Điện - Phụ trách đông y.
4. Nguyễn Đình Quý - công tác điều trị và đông y.
Năm 1968, ông Nguyễn Đình Linh đi phục vụ đội dân quân xe thồ, ông Nguyễn Đình Chính, Trạm trưởng, năm 1968, bà Hồ Thị Ngân (Quỳnh Bảng) được huyện điều về làm Trạm trưởng, năm 1970, ông Lê Tiến Nghiệm, làm Trạm trưởng.
Trong hoàn cảnh cơ sở, vật chất của trạm y tế còn nghèo nàn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp thì những nhiệm vụ mới đặt ra là hết sức nặng nề. Cán bộ y tế đã phối hợp với xã đội dân quân, mở các lớp huấn luyện về cách cứu chữa các nạn nhân khi bị sập hầm, cách buộc garô những vết thương thông thường. Nhờ làm tốt công tác sơ cứu ban đầu, trạm y tế và đội ngũ anh, chị em cứu thương đã góp phần giảm bớt được những thiệt hại cho nhân dân.
Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt, Trạm y tế phải chuyển dời nhiều lần, có lúc phải làm nhà hầm tại Cồn Điệp (khối 8 ngày nay) để điều trị bệnh nhân. Nhà hầm dựng xong cũng là lúc máy bay thả bom xuống vùng đông Cẩm làm 5 người chết và nhiều người khác bị thương. Nhờ có nhà hầm nên những người bị thương được cứu chữa kịp thời. Để giúp các bà mẹ khi sinh đẻ, các chị làm công tác hộ sinh đã về từng nhà để thăm, khám thai và đỡ đẻ. Nhờ đó cũng hạn chế được những khó khăn cho các bà mẹ và trẻ em. Công tác vệ sinh phòng dịch được chú trọng sau chiến tranh, nhất là đẩy mạnh phong trào làm ba công trình: hố xí hai ngăn, giếng xây, nhà tắm nên trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt đã không để xẩy ra các dịch bệnh lớn. Trạm xây dựng vườn cây dược liệu, tổ chức vận động nhân dân trồng những cây thuốc thông thường trong gia đình để tự chữa bệnh.
Với thành tích đó, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nhiều năm liên tục, Ngành y tế được xếp loại đơn vị xuất sắc và đơn vị điểm của ngành y tế của huyện và tỉnh.
Công tác văn hoá - thông tin được quan tâm đúng mức, góp phần tích cực trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thực hiện khẩu hiệu "Tiếng hát, át tiếng bom", phong trào ca hát, sinh hoạt văn nghệ vẫn duy trì đều đặn. Xã có đội văn nghệ và đội thông tin lưu động được thành lập từ sau hoà bình lập lại, tổ chức biểu diễn tuồng và nhiều vở kịch nói, ca múa, hát phục vụ các ngày lễ, tết nhất là phục vụ trên các công trường thỦy lợi. Ban thông tin xã mua loa phát thanh cho các thôn để phát tin, đọc báo trên các chòi phát thanh. Ở các thôn, xóm đều có bảng tin, khẩu hiệu, tranh cổ động, pa nô, áp pích…
Chiến tranh tàn khốc, ác liệt, nhưng với tinh thần tương thân tương ái, đảng bộ và nhân dân đã giúp công của hỗ trợ những gia đình bị thiệt hại do bom đạn Mỹ gây ra, đồng thời chắt chiu từng củ khoai, củ sắn, bát nước chè xanh phục vụ cho các đơn vị trực chiến hàng ngày, theo sự phân công. Sau mỗi trận đánh các cháu thiếu nhi và nhân dân đã kịp thời chuyển lá ngụy trang vào các trận địa, ngụy trang che mắt quân thù.
4. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, xã hội
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện Ủy, Đảng bộ xã đã kịp thời thích ứng với thời chiến, hoạt động khẩn trương, tổ chức chặt chẽ, chú trọng công tác tư tưởng và kỷ luật nội bộ, cán bộ nhìn chung gương mẫu, động viên được phong trào quần chúng. Đảng bộ bám sát tình hình địa phương, kiện toàn tổ chức, nhằm tăng cường đoàn kết, động viên mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân tham gia chiến đấu, sản xuất, tích cực chi viện cho tiền tuyến. Đảng bộ ngày càng vững mạnh. Đảng ủy đã xác định đúng vị trí quân sự của xã trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, đề ra những chủ trương, biện pháp thích hợp, lãnh đạo thực hiện cụ thể và toàn diện. Đồng thời quan tâm công tác vận động, động viên, tổ chức nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến. Thông qua phong trào quần chúng do đảng bộ tổ chức và lãnh đạo, qua các cuộc đấu tranh thử thách, đã bồi dưỡng nhân tố tích cực để kết nạp vào Đoàn, kết nạp và Đảng. Trong chiến tranh, đảng bộ kết nạp được nhiều đảng viên, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng. Chính quyền cũng được kiện toàn phù hợp với thời chiến, tổ chức gọn nhẹ, đáp ứng tình hình cụ thể cấp thiết của chiến tranh. Chính quyền tập trung vào việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến, chi viện cho miền Nam, đóng thuế nông nghiệp đầy đủ, hàng năm hoàn thành và hoàn thành vược mức nghĩa vụ đóng góp lương thực, thực phẩm. Mặt trận Tổ quốc chú trọng đoàn kết lương giáo, có vai trò tích cực trong việc sửa sai cải cách ruộng đất, chống địch dụ dỗ, cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, làm tốt việc vận động, tổ chức nhân dân tham gia các phong trào yêu nước. Vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp đầy đủ, đi dân công vận chuyển hàng hoá, bảo vệ kho tàng, bến bãi phục vụ chiến trường.
Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, phong trào quần chúng phát triển với những khẩu hiệu thi đua thiết thực. Thanh niên với khẩu hiệu "ba sẵn sàng":
Sẵn sàng chiến đấu.
Sẵn sàng khắc phục khó khăn
Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc gọi.
Trong phong trào tòng quân, có đồng chí chích tay lấy máu, viết huyết tâm thư mong được lên đường chiến đấu. Nhiều thanh niên nhẹ cân đã bỏ đá vào túi cho đủ cân lúc khám tuyển. Đội xung kích của Đoàn thanh niên lao động đã nhiều lần hoàn thành nhiệm vụ tải thương, vận chuyển hàng hoá và thông xe trước thời hạn dưới làn bom đạn. Đoàn tổ chức “cánh đồng thanh niên”, tổ chức thanh niên làm nòng cốt trong các đội kỹ thuật của HTX.
Xã đội đã làm tốt việc tuyển quân. Trước khi nhập ngũ, số thanh niên dự tuyển đều được xã đội tập trung bồi dưỡng sức khoẻ, học tập chính trị, động viên tinh thần. HTX và các đoàn thể tài trợ tiền, gaọ, mua thêm thực phẩm để nuôi quân. Nhờ vậy, trước khi lên đường, thanh niên đều lên cân, đủ sức khoẻ để nhập ngũ.
Phụ nữ với khẩu hiệu "ba đảm đang":
Đảm đang trong sản xuất.
Đảm đang trong công việc gia đình.
Đảm đang trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Trong thành tích chung của Đảng bộ và nhân dân có sự đóng góp hết sức to lớn của những người mẹ, người chị. Chiến tranh xảy ra, biết bao chị. em đã tự nguyện đảm nhận việc đồng áng, phụng dưỡng cha, mẹ già, chăm sóc con thơ để chồng, con yên tâm lên đường đi chiến đấu. Cũng không ít các mẹ, các chị đã âm thầm chịu đựng những mất mát, đau thương bởi chiến tranh như: Lê Thị Túc (mẹ của hai liệt sỹ), bà Hồ Thị Tùy ( mẹ của một liệt sỹ và một thương binh hạng nặng), một số chị em khác đã vui vẻ nhường nhà ở của mình cho Chính phủ làm kho cất giấu hàng hóa. Có lúc lương thực, thực phẩm của bộ đội để đầy nhà dân mà không hề bị hư hao, mất mát; lúc máy bay đến đánh phá, các chị lo cứu hàng của Nhà nước còn nhà cửa của gia đình mình bị cháy trụi vẫn không hề kêu ca, phàn nàn. Cảm động biết bao sự hi sinh của những người phụ nữ quê hương từ những năm đầu cách mạng tháng Tám đến nay như bà: Hồ Thị Chưu, Vũ Thị Cới, Trần Thị Xang, Hồ Thị Nhuệ v.v… Các bà, các chị đã góp phần cùng Đảng và nhân dân vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để sản xuất và chiến đấu, thực hiện tốt trách nhiệm của hậu phương đối với công cuộc chống Mỹ cứu nước.
Nhìn suốt chặng đường những năm chiến tranh, đặc biệt trong hai lần phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, Quỳnh Xuân trải qua bao thử thách, chịu nhiều tổn thất nặng nề về người và của. Đã huy động 1.500 thanh niên lên đường nhập ngũ, 450 người gia nhập tổng đội Thanh niên xung phong, 290 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến. Trong đó có 67 người con vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường, 59 người con để lại một phần cơ thể. Tại quê hương, bom đạn Mỹ đã cướp đi 27 sinh mạng, 30 người bị thương, 200 nóc nhà bị phá hủy hoàn toàn, 150 con trân bò bị chết, nhiều tài sản khác bị phá hoại, 50% diện tích đất canh tác bị bom đạn đào xới nhiều lần. "Lửa thử vàng, gian nan thử sức", Đảng bộ và nhân dân nêu cao quyết tâm, phát huy cao độ sức mạnh tiềm tàng trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi xóm, để bảo vệ và xây dựng quê hương. Cùng với việc giữ vững kinh tế trong hoàn cảnh chiến tranh. Xã còn hoàn thành tốt nhiệm vụ vận chuyển, bảo vệ giao thông thông suốt, làm tốt vai trò nhiệm vụ của hậu phương với tiền truyến; huy động được 4.500 tấn lương thực, 1.600 tấn thịt, 400 tấn lạc, vừng, 6.500 tấn rau quả, 15 triệu đồng tiền mặt chi viện cho chiến trường và nuôi lực lượng dân quân trực chiến, bồi dưỡng cho thanh niên bổ sung quân đội, huy động 14 nhà kho của các HTX để cất hàng quân sự. Kết quả đó gắn liền với mồ hôi, nước mắt, xương máu của những người dân ngày đêm bám ruộng đồng để sản xuất, động viên con em lên đường đánh giặc, gắn liền với vai trò chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện của Đảng bộ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể. Ban quản trí hợp tác xã nông nghiệp, những người trực tiếp quản lý điều hành, đôn đốc cơ sở sản xuất, xây dựng xóm làng.
Trong chiến tranh, vừa làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhân dân Quỳnh Xuân đã giành được nhiều thành tích lớn, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương chiến công hạng Ba (năm 1968), Huân chương chiến công hạng Nhì (năm 1972), 8.569 Huân, Huy chương các loại, 40 cờ thưởng luân lưu, 92 bằng khen cấp tỉnh, 80 Giấy khen các loại, 1 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 1 anh hùng lực lượng vũ trang, 1 thầy thuốc ưu tú. Đảng bộ trên 23 năm liên tục đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, được huyện, tỉnh tặng cờ luân lưu. Phần thưởng cao quí nhất được Nhà nước phong tặng: Danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ tang nhân dân”.
Những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân giành được là rất đỗi tự hào, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
CHƯƠNG V
QUỲNH XUÂN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(1975 - 2010)
Ngày 30/4/1975, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, cả nước thống nhất, đi lên xây dựng CNXH.
Ngày 25/4/1976, cả nước tiến hành bầu cử Quốc hội thống nhất. Kỳ họp Quốc hội khóa VI lần thứ nhất khai mạc ngày 02/7/1976, quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tháng 12/1976, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã tổng kết kinh nghiệm phong phú của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời đề ra đường lối chung cho cách mạng cả nước trong thời kỳ mới là thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hòa bình lập lại, tháng 5/1975, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu tiến hành Đại hội lần thứ XVI tại thị trấn Cầu Giát. Đại hội đã tập trung thảo luận và quyết định những nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Theo sự chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy, Quỳnh Lưu là một trong năm huyện của cả nước được Trung ương Đảng chọn làm thí điểm xây dựng cấp huyện thành một đơn vị nông - công nghiệp với các mục tiêu là:
Tổ chức lại sản xuất, lấy nông nghiệp làm cơ sở, lấy công nghiệp hoá nông nghiệp làm trung tâm.
Chủ trương chung là đưa cơ giới hoá vào sản xuất để rút bớt lao động nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp, xây dựng các cụm kinh tế - kỹ thuật, từng bước thực hiện thành thị hoá nông thôn. Đây là một công việc rất mới mẻ, để thực hiện được đòi hỏi phải có nhiều yếu tố về tinh thần, lực lượng, kể cả yếu tố khách quan, chủ quan, đặc biệt là về ý chí và trí tuệ…
Trong khí thế phấn khởi chung của đất nước trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và nhân dân phấn khởi bước vào thời kỳ mới, thời kỳ lao động sản xuất, xây dựng quê hương giàu mạnh.
Bước vào chặng đường mới, Đảng bộ và nhân dân gặp phải không ít khó khăn, trở ngại. Cơ sở vật chất của các hợp tác xã vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thất thoát và hư hỏng nhiều qua những năm chiến tranh. Đại đa số nhân dân lao động đều bị thiếu ăn từ 3-5 tháng. Đời sống tinh thần, trình độ văn hóa thấp. Phong tục tập quán còn nhiều hủ tục phong kiến nặng nề. Nạn mê tín dị đoan còn khá phổ biến. Những vùng dân cư đông đúc như Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Xuân An lại quy tụ trên một vùng đất trồng lúa, ẩm thấp, quanh năm ngập lụt; chỉ một vài trận mưa nước và rác thải đã dâng lên khắp đường thôn, ngõ xóm. Môi trường sinh thái bị ô nhiễm. Lúa là cây lương thực chủ yếu nhưng năng suất hàng năm không vượt quá 4 tấn/ha.
Để vượt qua thách thức đó, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân phải nỗ lực, cố gắng phấn đấu, thực hiện công tác di dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đưa quê hương ngày thêm giàu mạnh.
I. ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUỲNH XUÂN KHÔI PHỤC KINH TẾ, BƯỚC ĐẦU CHUYỂN ĐỔI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ (1976 - 1986).
1. Thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 - 1980)
Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ khóa XI (1976) đã chỉ rõ: “Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là chuyển Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Xuân An gồm 800 hộ dân cư lên các chân đồi, núi ở phía Bắc ” .
Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng bộ, tạo điều kiện mở rộng diện tích canh tác và giải phóng cho hàng ngàn nông dân lao động ra khỏi cảnh ao tù nước đọng đi lên những vùng đất cao ráo, thoáng mát… Nghị quyết dời chuyển dân cư Đại hội XI nhất trí thông qua, được đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ủng hộ, đươc thể hiện ý chí quyết tâm: “Đưa mạ vào sân, chuyển dân lên rú (đồi)”. Đây là bước đột phá để chuyển mình, vươn lên sánh vai cùng các xã, tromg Huyện, Thị.
Việc triển khai Nghị quyết chuyển dời dân cư, Quỳnh Xuân cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại mà nặng nề nhất là tâm lý an phận với mảnh đất cũ, ngại dời nhà đến những vùng đất mới. Vì thế, có người đã nằm chắn trước máy san ủi đất để phản đối chủ trương của Đảng bộ và chính quyền. Các đồng chí lãnh đạo và Ban chỉ đạo đã đến từng nhà để động viên nông dân, giải thích chủ trương của Đảng ủy và chính quyền. Đồng thời giúp các gia đình xã viên khắc phục khó khăn trong việc di chuyển địa điểm. Hợp tác xã nông nghiệp cũng tiến hành thống kê, phân loại cụ thể từng loại tài sản của xã viên để có mức đầu tư công điểm, di chuyển cho xã viên một cách hợp lý. Hợp tác xã lập ra các đội chuyên như: đội vận tải, đội xây nề, đội thợ mộc…để làm các công trình của tập thể và hỗ trợ các xã viên gặp khó khăn về phương tiện và nhân lực.
Nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng ủy, chính quyền và Ban quản trị hợp tác xã, chỉ một thời gian ngắn gần 680 hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở 3 làng Xuân Hòa, Quỳnh Tụ, Xuân An cũ được dời lên ở dọc chân đồi. Tại các nơi mới, nhà cửa của xã viên được quy hoạch có hàng, có lối. Mỗi gia đình có một mảnh vườn từ 250m
2 đến 1 sào. Hợp tác xã có thêm 85 hec ta đất để thâm canh lúa và hoa màu; mở đoạn đường từ ngã tư đi xuống Quỳnh Liên. Đến cuối năm 1976, công việc dời chuyển dân cư cơ bản hoàn thành.
Đi đôi với việc sắp xếp lại khu vực dân cư, Đảng bộ tập trung công sức vào việc cải tạo đồng ruộng. Tính đến cuối năm 1976, Đảng bộ và nhân dân đã cải tạo được trên 30 hec ta diện tích đất thổ cư cũ, 15 héc ta vùng Hói Đăng và vỡ hoang thêm được 37 héc ta đất vùng đồi; trên 50% diện tích đất canh tác của hợp tác xã đã được cải tạo để đưa cơ giới hóa vào sản xuất; sản lượng lương thực đạt 412 tấn lúa, 231 tấn khoai, 8,8 tấn đậu các loại. Ngoài lúa và hoa màu, xã viên còn thu nhập hàng trăm ngàn đồng từ rau vụ đông trồng trong vườn. Đời sống vật chất, tinh thần và môi trường cư trú được cải thiện.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi cũng có bước phát triển. Việc chuyển địa bàn cư trú và canh tác nên đàn gia súc, gia cầm ở khu vực tập thể cũng như hộ gia đình phát triển hơn trước. Tính đến năm 1977, Quỳnh Xuân đã có tổng đàn trâu 135 con, bò 552 con, lợn 1051 con và dê 45 con và hàng ngàn con gà, vịt góp một phần đáng kể vào việc bảo đảm đời sống nhân dân, làm nghĩa vụ cho Nhà nước, trong thời kỳ bao cấp. Quỳnh Xuân là một trong những xã của huyện Quỳnh Lưu hoàn thành sớm và vượt mức 17 tấn thực phẩm.
Trong giai đoạn này, sự nghiệp giáo dục, y tế cũng được đảng bộ và chính quyền quan tâm, đầu tư xây dựng. Trường cấp 1 - 2 được nhập thành trường phổ thông cơ sở, xây dựng lại khang trang với 25 phòng học, 980 học sinh và 30 cán bộ giáo viên, đáp ứng nhu cầu dạy và học cho con em.
Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được quan tâm. Năm 1978, Trạm y tế được di dời từ vị trí Giếng Đồng lên đồng Chặng Hùng (khối 14 ngày nay). Trạm được xây mới 3 ngôi nhà: 1 ngôi nhà phục vụ công tác dược bán thuốc, 1 nhà làm phòng trực, hội họp, giao ban và điều trị, 1 nhà phục vụ công tác kế hoạch hóa gia đình. Phát huy truyền thống chữa trị bệnh thời kỳ chống Mỹ, trạm y tế đã làm tốt việc chữa bệnh theo hướng đông - tây y kết hợp, xây dựng vườn thuốc nam với đủ các loại cây thuốc góp phần điều trị bệnh hiệu quả cho nhân dân. Việc tuyên truyền và phổ cập cho nhân dân cách phòng chống dịch bệnh hàng năm được chú trọng. Mạng lưới y tế từ xã đến thôn được củng cố, kiện toàn. Tổ chức nhiều đợt phun thuốc diệt muỗi, phòng trừ bệnh sốt rét, công tác y tế dự phòng cũng được quan tâm, phong trào vệ sinh phòng bệnh, thực hiện trong mỗi gia đình đều có bể cạn chứa nước sạch, giếng nước và hố xí hai ngăn hợp vệ sinh; triển khai tiêm chủng, phòng tránh các loại bệnh như đậu mùa, tả... có hiệu quả. Trên địa bàn xã nhiều năm không để xẩy ra dịch bệnh, không gây ảnh hưởng sức khoẻ nhân dân. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình được tiến hành thường xuyên, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp tránh thai diễn ra hiệu quả nên đã hạ được tỷ lệ phát triển dân số. Các công trình nhà trẻ, hội trường cũng được quy hoạch xây dựng, tạo cho khu dân cư mới của xã có một bề thế, đầy sức sống.
Những thành tích bước đầu của Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân đã thể hiện sự thành công của tư tưởng dám nghĩ, dám làm, năng động và đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, sự động viên cổ vũ của cả hệ thống chính trị - xã hội. Những kết quả đó đã mở ra một triển vọng tiến lên trên con đường phát triển kinh tế và tổ chức đời sống ở xã nhà. Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Lưu đã đánh giá lại việc bố trí lại dân cư, tổ chức lại sản xuất của Quỳnh Xuân thực sự như một cuộc cách mạng có tác dụng cổ vũ phong trào chung của toàn huyện Quỳnh Lưu.
Việc tổ chức lại sản xuất, đưa cơ giới hoá vào sản xuất cùng với việc đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; xây dựng giao thông thủy lợi một cách đồng bộ. Các trục đường liên thôn, liên xã được uốn nắm đào đắp... đã có vai trò tích cực, quan trọng để phát triển nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm, thúc đẩy giao lưu hàng hoá, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng phát triển lực lượng sản xuất và cải tạo quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Diện tích ô thửa được hình thành, công tác làm thủy lợi được đẩy mạnh. Năm 1978, công trình thủy lợi Vực Mấu được khởi công xây dựng, đây là công trình lớn nhất ở Bắc miền Trung do ta thiết kế và thi công trong cuối thế kỷ XX. Công trình nằm ở phía Tây Bắc huyện Quỳnh Lưu, thuộc vùng giáp ranh 3 xã: Quỳnh Trang, Quỳnh Thắng và Quỳnh Tân. Hồ hoàn thành sẽ tưới được hơn 2.000 ha đồng ruộng cho vùng Tây Bắc và cản lũ hàng năm cho các xã ở hạ nguồn sông Hoàng Mai, đồng thời tạo ra môi trường cảnh quan sinh thái, thu hút du lịch. Công trình thể hiện phương châm: "Nhà nước và nhân dân cùng làm", công trình hoàn thành với sự đóng góp hơn 3 triệu ngày công, đào đắp được 1,6 triệu m3... Tổng kinh phí công trình 19 triệu đồng (tương đương với ngày nay hơn 200 tỷ đồng), trong đó Trung ương hộ trợ 1/3 kinh phí, còn lại là sức dân đóng góp. Trong công trình chung của huyện, Đảng bộ và nhân dân đã tham gia tích cực, thành lập Ban chỉ đạo điều nhân lực hàng vạn ngày công, ngày đêm dầm mưa, giải nắng cùng các đơn vị chủ lực: Quỳnh Tân, Quỳnh Xuân, Quỳnh Trang, Quỳnh Thắng, Mai Hùng và các xã khác trong huyện đóng góp.
Việc duy trì quá lâu cơ chế bao cấp và chế độ tem phiếu đã gây nhiều cản trở cho người sản xuất, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng vọt. Về năng suất cây trồng, vật nuôi, mức sống của người lao động trong một thời gian dài còn rất thấp so với yêu cầu chung của đất nước và nhu cầu của nhân dân địa phương. Nguyên nhân như báo cáo của Đảng ủy tại Đại hội Đảng bộ Quỳnh Xuân khóa XV (1978) đã đề cập đó là:
“Quản lý lao động không chặt chẽ. Định mức trả thù lao cho lao động không hợp lý, thưởng phạt không nghiêm minh v.v…”
(1).
Trong việc xây dựng các hợp tác xã bậc cao, nhưng cán bộ quản lý chưa được bồi dưỡng, đào tạo kịp thời, trình độ quản lý theo kế hoạch còn yếu, nhất là khâu điều hành sản xuất, quản lý ngày công định mức không hợp lý trong từng công việc, xã viên chỉ chọn việc dễ để làm, dẫn đến tình trạng "rong công phóng điểm", giá trị ngày công thấp, xã viên chán nản. Vụ nào cao nhất cũng chỉ đạt 1kg thóc/công, nhiều năm chỉ đạt 0,3-0,5 kg/công; mức ăn theo định lượng một lao động chính đạt 300 công và 15 kg/tháng, nhưng thường không đạt. Thêm vào đó, không còn viện trợ lương thực của các nước bạn nên việc huy động nghĩa vụ lương thực, thực phẩm của nông dân cho Nhà nước tăng cao, dẫn đến tình trạng thiếu hụt lương thực. Đây không chỉ là tình trạng riêng của Quỳnh Xuân mà là thực trạng chung của cả nước.
Những năm 1978 - 1979, thiên tai diễn ra dồn dập trên toàn huyện làm cho mùa màng thất bát, mức ăn lại càng thấp, đời sống nhân dân thêm khó khăn. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình hình trên bán đảo Đông Dương. Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch ráo riết tiến hành chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng tiến hành bao vây cấm vận về kinh tế, kết hợp với các phần tử phản động, bất mãn, xuyên tạc vu khống nhằm chống lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chúng kích động lôi cuốn những phần tử thoái hóa trong nội bộ Đảng tiến hành gây bạo loạn lật đổ. Nghiêm trọng hơn, ngày 17/2/1979 chúng điên cuồng phát động cuộc chiến tranh Biên giới phía Bắc.
Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm lăng, ngày 3/3/1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức chống xâm lược. ngày 4/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ban hành lệnh Tổng động viên.
Đảng bộ và nhân dân lại bước vào một thời kỳ mới, huy động tổng lực sức người, sức của cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Lực lượng thanh niên lại xung phong nô nức tòng quân, gia nhập lực lượng vũ trang. Nhiều cựu chiến binh đã trải qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, vẻ vang của dân tộc, nay được nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ, đoàn tụ với gia đình, xây dựng quê hương, nhưng trước lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và lệnh Tổng động viên, họ không ngần ngại một lần nữa quên thân vì nước, lên đường nhập ngũ.
Tại quê nhà, Đảng bộ và nhân dân cùng với huyện tham gia phòng thủ. Quỳnh Xuân nằm ở cụm số IX, trong chín cụm chiến đấu của toàn huyện gồm:
Quỳnh Xuân, Quỳnh Tân và Quỳnh Văn. Thực hiện chủ trương của trên, toàn xã đã làm được 3 vạn chông tre, 2.000 chông sắt và huy động quyên góp khoảng 200-300 gốc tre tươi. Mỗi dân quân tự vệ đóng góp một cọc chống tăng, mỗi công nhân viên chức có một bàn chông sắt 5 mũi. Tổ chức, huy động được từ 300-500 lượt người và cán bộ, công nhân viên chức tham gia xây dựng phòng thủ tuyến ven biển; xây dựng hệ thống lô cốt, thành lập tiểu đoàn cơ động, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
2. Bước đầu thực hiện cơ chế quản lý mới
Năm 1980-1981, là thời kỳ khó khăn nhất của Đảng bộ và nhân dân, sức ép của hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; việc huy động nhân dân đi xây dựng các công trình của tỉnh và huyện như: Ba ra Đô Lương, sông Nghèn, kênh Bình Sơn, trọng điểm là hồ Vực Mấu... kinh tế sa sút nghiêm trọng, lương thực thiếu thốn, nhân dân phải bỏ ruộng chạy chợ. Hợp tác xã phải chạy đến nhiều nơi để mua lương thực cung cấp cho dân, ngoài thị trường giá lương thực, thực phẩm tăng vọt. Các tầng lớp được cấp lương thực theo tem phiếu cũng gặp nhiều khó khăn, mức phân phối không đủ. Tình hình kinh tế - xã hội của xã nằm trong bối cảnh chung của cả nước. Cả nước bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cơ chế bao cấp đang cản trở sự phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực phân phối lưu thông về kinh tế nông nghiệp. Việc đổi tiền năm 1978 cũng như hiện tượng "ngăn sông, cấm chợ" làm cho tình hình thêm phức tạp.
Để tháo gỡ khó khăn cho nông dân, thúc đẩy sản xuất phát triển, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW, về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, nhằm phát huy tinh thần làm chủ của xã viên, tinh thần lao động sáng tạo của người lao động. Đây là sự chuyển biến lớn về nhận thức quản lý nông nghiệp của Đảng ta, từ đó đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ chế quản lý sang các lĩnh vực khác.
Đảng bộ và nhân dân, phấn khởi đón nhận Chỉ thị 100-CT/TW, đồng thời thực hiện tốt các Nghị quyết đại hội đảng bộ, bám sát thực tế địa phương, giải quyết từng bước các mục tiêu kinh tế - xã hội trên địa bàn, không ngừng phấn đấu đưa năng suất cây trồng và vật nuôi tăng lên, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Thực hiện chủ trương của trên, hợp tác xã đã nâng cao năng suất sản lượng, mở mang ngành nghề tăng giá trị sản xuất, nâng cao đời sống cho nhân dân, các ngành nghề mới ra đời: đóng tàu vận tải biển 2 chiếc có công suất 23 mã lực, trọng tải 50 tấn để vận chuyển hàng hóa từ Quảng Ninh về phục vụ, ngành tiểu thủ công nghiệp, mở lò đốt vôi liên hoàn và sản xuất ngói dập, xây dựng đội vận chuyển bằng xe trâu kéo để phục vụ ngành nghề. Cải tạo đồng 3/2, đồng Rộc Mồ. Xây dựng cánh đồng muối với diện tích 40 ha, sản lượng muối cấp ra thị trường hàng ngàn tấn.
Cải tạo đồng nước mặn, hình thành các vùng chăn nuôi tôm nước lợ, nhập cho nhà máy đông lạnh Cửa Hội; tập trung vay vốn mua hươu sao giống tại Xí nghiệp chăn nuôi Hương Sơn (Hà Tĩnh), để phát triển nghề nuôi hươu sao lấy nhung, là bước đột phá mạnh mẽ, vươn lên và thời kỳ này”Quỳnh Xuân đi lên từ con hươu”. Xây dựng cống ngăn mặn 4B để đảm bảo phục vụ sản xuất nông nghiệp, đào kênh tưới nước ngọt từ đội 22 - 23 (nay là khối 8) đi qua xóm Xuân An để thau chua, rửa mặn sản xuất nông nghiệp. Xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi phục vụ cho hợp tác xã và nhân dân như: Hội trường, nhà làm việc, nhà trẻ, sân phơi, đồng thời mua thêm máy kéo để vận chuyển nguyên vật liệu xây dựng, vận chuyển thóc, lợn để nhập cho Nhà nước. Xây bờ chống lũ phục vụ dân cư vùng cầu La Bà.
Đối với xã viên, nhận và cải tạo đồng ruộng dần dần từng bước. Tự xã viên bỏ tiền ra mua sắm trâu, bò để lấy sức kéo, phân bón phục vụ sản xuất. Việc khoán theo Chỉ thị 100-CT/TW đã làm cho nông dân quan tâm hơn đến đất đai trồng trọt, nâng cao tinh thần chủ động trong sản xuất, nguồn nhân lực được huy động, ý thức làm chủ cũng được nâng cao; xã viên hăng hái, chủ động thực hiện các biện pháp thâm canh, tăng năng suất để hưởng mức vượt khoán. Đa số xã viên nhận khoán đều vượt sản lượng được giao.
Việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã có tác động thúc đẩy việc cải tiến quản lý ở các hợp tác xã, bảo đảm cho người lao động tự do sáng tạo, phát huy sáng kiến, tăng năng suất để vượt mức khoán, hài hoà được cả ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động. Ngoài thâm canh hai vụ lúa, nhân dân bắt đầu làm vụ đông, thời kỳ đầu chủ yếu là khoai lang. Tổng sản lượng lương thực tăng nhanh, tính đến cuối năm 1986, Quỳnh Xuân đã đạt được 1.192 tấn lương thực với tổng giá trị 8.781.000đ. Đóng góp nghĩa vụ đạt 304 tấn, vượt 15 tấn so với năm 1976. Về chăn nuôi cũng giành được những kết quả lớn, tổng đàn gia súc, gia cầm tăng từ 5-10%. Riêng đàn hươu từ 62 con (năm 1985) lên 140 con năm 1986 đạt 226%. Có được những thành quả đó là do: “toàn Đảng bộ đoàn kết nhất trí cao, đảng bộ đã biết đầu tư vào lao động sống”, “việc phân bổ lao động hợp lý”. Điểm nổi bật là Đảng bộ đã “phát động được phong trào hành động của quần chúng trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng v.v..”
(1).
Nhìn lại quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế mười năm sau chiến tranh, có thể khẳng định: đảng bộ Quỳnh Xuân đã phát huy được tính tự lực, tự cường biết khai thác tiềm năng hiện có và khơi dậy trí tuệ của nhân dân. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn vẫn bền bỉ, dẻo dai, bám đất, bám ruộng sản xuất. Đảng bộ cũng đã có nhiều quyết sách cụ thể để lãnh đạo vượt qua thời kỳ khủng hoảng để ổn định đời sống nhân dân, hoàn thành tốt các nghĩa vụ cho Nhà nước.
II- NHỮNG KHỞI SẮC BƯỚC ĐẦU TRONG THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986 - 2010).
1. Mười lăm năn đầu thực hiện công cuộc đổi mới
10 năm xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội (1975-1985), Quỳnh Xuân đã tạo ra những chuyển biến tích cực. Nhưng chuyển biến đó chưa làm thay đổi căn bản được tình hình kinh tế - xã hội. Trong khi đó cơ sở vật chất của địa phương còn nghèo nàn, lạc hậu. Số người thiếu việc làm vẫn tăng lên, thu nhập của người dân thấp, trong bối cảnh chung nền kinh tế nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Tháng 12-1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI diễn ra, với tinh thần: "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng sự thật", Đại hội đã khẳng định những thành tựu đạt được, nghiêm túc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo,chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Đồng thời nêu lên những phương hướng, nhiệm vụ, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước tiếp tục đi lên. Đại hội nhấn mạnh những nhiệm vụ cơ bản là:
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; triệt để xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đại hội đã đề ra 3 chương trình kinh tế - Xã hội là chương trình lương thực, thực phẩm, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng. Về nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI khẳng định: "Tiếp tục xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa". Và xác định:
"Nhiệm vụ bảo toàn mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá cho những chặng đường tiếp theo"
(2).
Quán triệt đường lối của Đảng, thực hiện các Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh và huyện, đảng bộ đã đề ra nhiều chủ trương thích hợp với tình hình địa phương, từng bước đưa Quỳnh Xuân thoát ra khỏi tình trạng suy thoái về kinh tế - xã hội. Chủ trương thực hiện ba chương trình kinh tế cũng như việc phát triển kinh tế nhiều thành phần được đảng bộ và nhân dân tiếp thu và vận dụng nhanh chóng vào thực tiễn cuộc sống, đưa Quỳnh Xuân bước đầu có những khởi sắc.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, qua các nhiệm kỳ Đại hội, đảng bộ đã "nhìn thẳng vào sự thật", nhận thức rõ những khó khăn, thách thức đang gặp phải. Đó là kinh tế thuần nông, cơ sở vật chất ban đầu rất nhỏ bé, sản xuất nông nghiệp trong tình trạng hạn hán, lũ lụt thường xuyên xẩy ra làm mùa màng bấp bênh, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phần lớn trưởng thành từ thực tiễn, chưa có kinh nghiệm trong quản lý kinh tế, nhiều đồng chí chưa qua các trường lớp đào tạo...
Trong hai năm 1987-1988, thiên tai liên tiếp xẩy ra tại huyện Quỳnh Lưu. Vụ đông xuân 1986 -1987, huyện bị thiệt hại mất 4.000 tấn lương thực vì dịch đạo ôn; vụ mùa tiếp theo mất trắng 7.000 tấn lương thực. Sóng thần làm 16,5km đê ngăn mặn bị vỡ, làm ngập mặn 2.500 ha đã để lại hậu quả nặng nề cho nhiều năm sau. Trận lụt lịch sử năm 1987, lượng mưa trên 1.600 mm chỉ trong một thời gian ngắn làm cho mùa màng mất mát rất nặng nề, thu nhập của nhân dân thấp, đời sống có nhiều khó khăn. Vụ mùa năm 1988, hạn hán gay gắt diễn ra ở đầu vụ, cuối vụ lại bị úng lụt nặng, mất 7.500 tấn. Tình hình đó làm cho sản lượng lương thực bị giảm, bình quân lương thực đầu người toàn huyện năm 1987-1988 chỉ còn 211,5kg.
Trước tình hình đó, đảng bộ phát động tinh thần tự lực, tự cường, khai thác tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên và lao động của địa phương, phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày, hoa màu để giải quyết khó khăn trước mắt.
Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển, ngày 15- 4 -1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10/NQ/TW về đổi mới quản lý nông nghiệp. Nghị quyết 10 (dân thường gọi là khoán 10) đề ra cơ chế khoán mới trong các hợp tác xã nông nghiệp, thay thế cho Chỉ thị 100/CT-TW năm 1981.
Nghị quyết xác định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã, hợp tác xã khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động. Khoán 10 đã khắc phục được những hạn chế của Chỉ thị 100 trước đây, đáp ứng được sự mong ước, chờ đợi, nguyện vọng thiết tha của nông dân. Khoán 10 tạo cho người dân làm chủ trong sản xuất. HTX cũng hoàn thiện thêm cách quản lý theo phương thức mới.
Đảng bộ nhanh chóng nắm bắt tình hình, quán triệt đường lối của Trung ương và Chỉ thị của Tỉnh ủy, Huyện ủy, phổ biến rộng rãi, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao nhận thức, tin tưởng vào đường lối của Đảng. Đảng bộ có nhiều chủ trương và biện pháp tích cực, cụ thể phù hợp với thực tiễn.
Khoán 10, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực, bà con nông dân hết sức phấn khởi, phát huy được bản chất cần cù, chịu khó, tận dụng thời gian, bám đất, bám ruộng sản xuất, phát triển chăn nuôi (trâu, bò, lợn, dê, hươu là con chủ lực của nền kinh tế ...), khôi phục các nghề thủ công truyền thống như: nung vôi, khai thác đá, nung gạch, làm ngói v.v.. du nhập những ngành nghề mới với phương châm: “ai có khả năng gì làm việc ấy”.
Để hỗ trợ cho bà con xã viên, lãnh đạo Đảng, chính quyền và hợp tác xã đã tạo mọi điều kiện làm nhanh thủ tục hành chính gắn liền sản xuất với lưu thông. Hỗ trợ một phần vốn đối với gia đình chính sách và gia đình gặp khó khăn… bằng nhiều biện pháp tích cực, từng bước khai thác tốt các thế mạnh về tiềm năng, giải quyết được việc làm cho xã viên, tăng nguồn thu ngân sách cho tập thể và địa phương.
Đầu năm 1988, Quỳnh Xuân đã phân bố được 1.130 lao động (trên tổng số 2.360 lao động của toàn xã) cho 12 ngành nghề và đã phát huy được hiệu quả cao, trong đó:
- 150 lao động chuyên chế biến thảm cói xuất khẩu, mỗi năm sản xuất được khoảng 10.000 bao mành.
- 30 lao động làm gạch ngói tập thể, mỗi năm cho ra khoảng 20 vạn viên.
- 45 lao động chuyên khai thác đá, mỗi năm đạt được hàng vạn mét khối, không những đáp ứng được nhu cầu xây dựng của địa phương mà còn lưu thông trong và ngoài huyện v.v. ..
Để phục vụ nhu cầu về vật tư, nhiên liệu cho sản xuất và đời sống của nhân dân, Quỳnh Xuân đã mạnh dạn tổ chức một đội vận tải đường thủy với 2 đội tàu gắn máy trọng tải trên 80 tấn, biên chế 16 người. Tuy chưa quen với sông nước và gặp nhiều trở ngại về vốn, nhưng đội vận tải đã góp phần giải quyết được một phần nhu cầu về vật tư cho sản xuất và tăng thêm nguồn thu cho tập thể. Ngoài ra, Đảng ủy còn tập trung phát triển nhiều ngành nghề như: vận tải đường bộ, làm muối, đánh cá biển, trồng và bảo vệ rừng thông v.v… Đó là chưa kể tới hàng ngàn lao động đang nhận gia công tại gia đình các mặt hàng khác cho hợp tác xã, trong những thời gian rỗi việc đồng áng.
Nhờ tận dụng hết diện tích gieo trồng, khai hoang phục hoá mọi nơi, từ chân đồi đến các sông hói đều được nhân dân tận dụng gieo trồng hết diện tích. Các HTX đưa về các loại giống có năng suất cao như X1, CR203, Kháng Dân... thay cho các loại giống có năng suất thấp. Nhân dân cũng tìm kiếm các loại giống thích hợp đưa vào sản xuất, góp phần đáng kể vào việc tăng cả diện tích, năng suất và sản lượng.
Nhờ đẩy mạnh thâm canh, năng suất, sản lượng cây trồng tăng dần lên. Năm 1996, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 2.377 tấn, đến năm 1998 đạt 3.500 tấn. Năng suất bình quân đạt 300kg/sào, thu nhập giá trị bình quân 1.700.000 đồng/khẩu. Tổng thu nhập GDP tăng, năm 1996 trên 14 tỷ đồng, đến năm 1998 dự kiến trên 17 tỷ đồng. Ngoài trồng lúa, đẩy mạnh trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như lạc L14 , ngô Lai cho thu nhập cao.
Cùng với đẩy mạnh trồng trọt, đảng bộ xã tập trung chỉ đạo phát triển chăn nuôi. Trong thời kỳ bao cấp, chăn nuôi theo nghĩa vụ, cộng với sự khó khăn về lương thực nên chăn nuôi không phát triển (năm 1976, đàn lợn có 920 con), các loại giống thường là thoái hoá, nên năng suất, hiệu quả đạt không cao, tỷ trọng chăn nuôi không đáng kể trong tổng thu nhập hàng năm. Từ ngày xoá bỏ bao cấp, chăn nuôi phát triển nhanh. Năm 1998, đàn trâu bò toàn xã có 670 con cày kéo. Đàn lợn năm 1988, có 2.400 con đến năm 1998 có 3.500 con, trong đó lợn nái 560 con. Chăn nuôi hươu lấy nhung sau một thời gian phát triển (năm 1990 toàn xã có trên 500 con, trong đó có gần 200 con hươu cái) đem lại hiệu quả kinh tế cao, do biến động của nền kinh tế thị trường, giá hươu giảm, vì thế tổng đàn hươu toàn xã năm 1998 còn 430 con. Ngoài ra, chăn nuôi các loại gia cầm như gà, vịt, ong lấy mật, cá, tôm... cũng có điều kiện phát triển, mở ra một hướng chăn nuôi mới cho người dân.
Kinh tế hộ gia đình phát triển khá đa dạng, phong phú, cho hiệu quả kinh tế cao và khá ổn định. Hàng năm, nhiều hộ gia đình có thu nhập từ chăn nuôi, trồng trọt lên tới hàng chục triệu đồng. Nhiều gia đình có tài sản cố định hàng chục triệu đồng… Một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy kinh tế hộ phát triển là Đảng bộ và chính quyền đã xác định đúng vị trí kinh tế hộ gia đình trong mối quan hệ với kinh tế tập thể, đề ra được những chính sách sát đúng có tác dụng kích thích kinh tế hộ phát triển.
Trồng rừng, từng bước phát triển. Trong chiến tranh, diện tích rừng bị thu hẹp, chỉ còn lại một số rừng thông do nhà nước quản lý. Đất nước thống nhất, diện tích rừng không ngừng được tăng lên. Năm 1990, có 753 ha rừng thông, do Lâm trường quốc doanh Quỳnh Lưu quản lý mỗi năm thu hoạch khoảng 80 tấn nhựa (có năm đạt tới 120 tấn) với giá trị 1,2 – 1,5 triệu đồng/tấn (giá năm 1986). Rừng thông hàng năm đem lại cho Nhà nước hàng trăm triệu đồng. Năm 1986, thực hiện chủ trương của Nhà nước giao đất, giao rừng cho địa phương quản lý, lâm trường Quỳnh Lưu đã giao cho hợp tác xã Đại Liên 150 ha rừng. Qua 2 năm 1987, 1988, đội trồng rừng đã ươm trồng được hàng triệu cây trên các đồi núi Mù U, Núi Bé, Núi Bệp v.v…, diện tích rừng không ngừng được mở rộng. Năm 1992, thực hiện chủ trương của trên, đất rừng được giao cho các hộ quản lý, chăm sóc, bảo vệ. Năm 1998, đã trồng mới được 120 ha, xây dựng mô hình trồng cây ăn quả vườn hộ gia đình 20 ha, đưa độ che phủ của rừng từ 25% năm 1995 lên 35% năm 1998. Từ việc làm tốt công tác trồng rừng và bảo vệ rừng đã tạo ra môi trường sinh thái tốt hơn, tình hình lụt lội, lở đất ít xẩy ra.
Việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ cũng được đảng bộ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1998, có 26 nghề phụ lớn nhỏ, nghề sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá.... Hàng năm, giải quyết được việc làm cho hàng trăm lao động, đưa lại thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng.
Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Đảng bộ và nhân dân đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, điện - đường - trường - trạm. Xã năm 1990, xã đầu tư xây dựng mới 3 dãy nhà bằng gạch, ngói, 24 phòng học (trường cấp 2) và 6 phòng học trường cấp 1 và nhiều công trình phúc lợi khác trị giá 805 triệu đồng; đầu tư xây dựng hệ thống đường điện 321 triệu đồng, giao thông 500 triệu đồng, hệ thống loa phát thanh 25 triệu đồng; công trình chợ 300 triệu đồng, bê tông hóa kênh mương 25 triệu đồng. Tổng số vốn xây dựng gần 2 tỷ đồng.
Trên cơ sở những thành tựu phát triển về kinh tế, hoạt động văn hóa - xã hội cũng có nhiều tiến bộ.
Do được đầu tư xây dựng nhiều phòng học, có khu nội trú khang trang, sạch đẹp cho giáo viên nên từ năm học 1990 – 1991, các trường đã chấm dứt tình trạng phải học “ba ca” như trước đây. Về chất lượng, được nâng lên, ba cấp học của các trường trên địa bàn xã hàng năm đều được trên xếp loại tiên tiến, xuất sắc.
Trạm y tế khởi công xây dựng từ năm 1955, mặc dù trang thiết bị dụng cụ y tế còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu và yếu, nhiều dịch bệnh đang xẩy ra trên địa bàn xã. Nhưng với phương châm "lương y như từ mẫu", đội ngũ cán bộ y tế xã luôn đạt cao trách nhiệm của người thầy thuốc, đặc biệt là đồng chí Cao Xuân Đề, trạm trưởng (có trình độ chuyên môn bác sỹ được đào tạo chính quy củ tại trường Đại học y khoa Thái Bình) đã có nhiều đóng góp trong việc khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. Ngoài việc điều trị một số căn bệnh thông thường cho người dân. Trạm tổ chức chế biến một số bài thuốc nam từ nguồn dược liệu tại chỗ, nhân dân.
Trong điều kiện khó khăn về nguồn vốn, chưa có điều kiện đầu tư lớn cho các hoạt động văn hóa - xã hội. Nhưng với sự nỗ lực của Đảng bộ và người dân phong trào văn hóa - văn nghệ cũng có bước chuyển biến tích cực. Lắp đặt được hệ thống loa phát thanh xuống tận cơ sở, thông tin về kinh tế - chính trị - xã hội trong cả nước, thế giới, cũng như nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã kịp thời đến được với người dân lao động. Việc chỉ đạo sản xuất và các hoạt động khác của Đảng bộ và chính quyền cũng nhanh chóng, thuận lợi hơn.
Kinh tế - xã hội phát triển là điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Năm 1998, toàn xã có 87 hộ giàu, 430 hộ khá. Toàn xã có 230 chiếc xe máy, 300 ti vi, 30 chiếc tủ lạnh, bộ mặt nông thôn được thay đổi.
Từ một yếu kém về nghĩa vụ quân sự, đến nay Quỳnh Xuân luôn luôn hoàn thành về chỉ tiêu giao quân. Tình trạng thanh niên trốn lính, đào ngũ không còn xẩy ra thường xuyên như trước. Từ năm 1987, luôn được cấp trên công nhận là đơn vị quyết thắng trên các mặt trận an ninh - quốc phòng.
Thực hiện nhiệm vụ do đại hội đảng bộ các khóa đề ra, bộ máy quản lý hợp tác từng bước được tăng cường, củng cố, nâng cao trình độ, năng lực, hiệu quả. Ban quản lý hợp tác xã đã thực hiện có hiệu quả những dịch vụ nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện đầy đủ thuế nông nghiệp cho Nhà nước, giải quyết rõ ràng, minh bạch, nhanh gọn những vấn đề thuộc về tài chính, vốn đầu tư sản xuất, phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm. Đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ gồm: 7 đồng chí có trình độ đại học, trình độ trung cấp 8 đồng chí, sơ cấp 2 đồng chí, lý luận chính trị phổ thông 18 đồng chí. Các ngành, các đoàn thể quần chúng cũng phát huy tốt vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chính trị, triển khai các Nghị quyết của trên xuống tận đội viên, đoàn viên, là những đơn vị khá của huyện Quỳnh Lưu, nhận được nhiều phần thưởng cao quý của cấp trên. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh được Trung ương Đoàn tặng cờ “ba xung kích”. Hội phụ nữ được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ - Tĩnh tặng bằng khen. Đảng bộ nhiều năm liền đạt trong sạch vững mạnh. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên có trình độ giác ngộ chính trị, được trang bị khoa học - kỹ thuật. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Tháng 2/1999, Hội nghị TW lần 2 (khóa VIII) bàn về: Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Hội nghị đã quyết định tiến hành cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Thực hiện tự phê bình và phê bình nhân dịp kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (02/9/1969 - 02/9/1999) và kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng (03/2/1930 - 03/2/2000). Đợt sinh hoạt tự phê bình và phê bình được cán bộ, đảng viên tiến hành một cách nghiêm túc, sâu rộng từ chi bộ đến đảng bộ. Mỗi người đều thấy rõ và khẳng định được những thành tựu do Đảng lãnh đạo và sự cố gắng của toàn dân, đồng thời cũng nghiêm túc chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm trong lãnh đạo. Việc điều hành và lề lối, phương pháp làm việc của cán bộ, đảng viên chủ yếu là cán bộ chủ chốt. Trên cơ sở đó tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng được tăng cường, vai trò tiên phong gương mẫu "nói đi đôi với làm" của cán bộ, đảng viên được đề cao.
15 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 - 2000) do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đảng bộ và nhân dân đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh - quốc phòng, tạo tiền đề vững chắc, ổn định cho sự phát triển trong những năm tiếp theo.
Bên cạnh những thành tích đạt được, Quỳnh Xuân còn tồn tại nhiều mặt hạn chế đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Sản xuất các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ còn ở mức thấp, nhỏ lẻ, thiếu hiệu quả. Việc thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao đất lâu dài cho nông dân và chuyển đổi đất còn chậm, manh mún. Hiệu quả trong chăn nuôi đạt thấp, mô hình phát triển kinh tế vườn - ao - chuồng chưa cao. Việc huy động sức dân xây dựng cơ sở hạ tầng còn yếu. Trong xây dựng đảng, công tác kiểm tra, giám sát chưa nghiêm, chưa thường xuyên. Đó là khó khăn lớn mà Đảng bộ và nhân dân phải nổ lực vượt qua.
2. Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Xuân cùng cả nước đẩy mạnh CNH - HĐH (2000-2010)
Năm 2000, năm đầu tiên bước vào thiên niên kỷ mới, trong bối cảnh công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ngày càng phát triển toàn diện, tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội. Đại hội, Đại biểu Đảng bộ khóa XXIV (nhiệm kỳ 2001-2005) đã diễn ra. Đại hội đã thảo luận và thông qua báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XXIII, đề ra mục tiêu nhiệm vụ mới. Trong đó tập trung phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh; khai thác triệt để các tiềm năng và lợi thế, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực, phát triển mở mang nhiều ngành nghề, nhiều hình thức, nhiều mô hình kinh tế... từng bước cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị, xây dựng cơ sở hạ tầng, đưa Quỳnh Xuân ngày càng phát triển giàu mạnh.
Đại hội bầu Ban Chấp hành và phân công:
1. Đồng chí: Nguyễn Đình Tề - Bí thư đảng bộ, (từ tháng 10/2003, đồng chí Tề được huyện điều lên, Ban Chấp hành bầu bổ sung đồng chí Hồ Văn Ánh làm Bí thư).
2. Nguyễn Duy Thao - Phó Bí thư trực Đảng.
3. Đồng chí: Hồ Văn Ánh - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND (từ tháng 10/2003, đồng chí Ánh lên thay đ/c Tề làm Bí thư).
Bước vào thiên niên kỷ mới (thế kỷ XXI), năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XXIV của Đảng bộ xã, Đảng bộ và nhân dân hăng hái bước vào đợt thi đua mới đạt được nhiều thành tích về kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị.
Năm 2005, tổng sản lượng lương thực đạt 4.800 tấn; tăng 1.340 tấn so với năm 2001; tổng giá trị sản xuất đạt 58 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2000 (30 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm (2000-2005) là 14,5%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Tỷ trọng nông - lâm nghiệp có xu hướng giảm từ 42% năm 2000, xuống 40% năm 2005. Tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ tăng từ 57,5% năm 2000 đến 59,45 năm 2005. Thu nhập bình quân đầu người tăng 2,6 triệu đồng năm 2000 lên 4,5 triệu đồng năm 2005. Do việc đưa nhanh các loại giống cây, con mới vào sản xuất, chuyển đổi ruộng đất, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật làm tăng nhanh sản lượng và giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích. Vụ đông được mở rộng, trở thành vụ sản xuất chính. Cây trồng chủ yếu là lúa Lai, diện tích 215 ha, bình quân đạt 50 tạ/ha năm 2004. Diện tích ngô vụ thu 100 ha. Xây dựng được mô hình cánh đồng đạt giá trị 50 triệu đồng/ha. Sau chuyển đổi đất, một số diện tích trồng lúa năng suất thấp được chuyển sang trồng rau màu, nuôi trồng thủy sản, đem lại hiệu quả kinh tế khá.
Chăn nuôi có bước phát triển rõ nét về cả tổng đàn và giá trị thu nhập. Năm 2005, tổng đàn trâu 385 con, tăng 5,4%, đàn bò 998 con, tăng 13,9% so với năm 2000. Đàn lợn có 5.201 con, tăng 87%, bình quân mỗi hộ gia đình có từ 2 - 3 con; đàn hươu sao 295 con, tăng 5,4%... Tổng giá trị sản xuất năm 2005 ước đạt gần 13 triệu đồng tăng gấp 2 lần so với năm 2000, 6 triệu đồng. Đảng ủy chủ trương xử lý 54 ha đất nuôi trồng thủy sản và tiếp tục chuyển đổi đất nông nghiệp thu nhập thấp sang nuôi trồng thủy sản, đưa diện tích nuôi trồng thủy sản lên 60 ha, năng xuất đạt từ 1-4 tấn/ha. Mô hình cá - lúa, có bước chuyển rõ nét, đem lại hiệu quả.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - xây dựng phát triển khá sôi động. Trên địa bàn Quỳnh Xuân có 10 công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hình thành, hoạt động có hiệu quả, các nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh như chế biến vật liệu xây dựng đá các loại, vôi, ngói... tạo việc làm tại chỗ cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người dân. Toàn xã có 212 chiếc xe các loại, trong đó: ô tô 50 chiếc, máy xúc các loại 25 chiếc, công nông 143 chiếc. Tổng giá trị sản xuất năm 2005 đạt gần 30 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2000 là 16 triệu đồng.
Xây dựng cơ bản được đầu tư, xây mới 6 trạm điện tư nhân, 4 trạm bơm di động phục vụ tưới nước cho những nơi thiếu chủ động nước. Nâng cấp trạm y tế, làm mới 5 phòng, xây dựng 7 km đường bê tông, 15 km đường cấp phối; 17 cầu, cống lớn nhỏ; bê tông hóa kênh mương 7 km; 36 phòng học cấp 4, nhà văn hóa đa chức năng tại các trường học; bê tông hóa 3 sân trường và sân công sở, xây dựng tường bao trường tiểu học và trường mầm non, tường bao sân vận động trung tâm, trạm y tế. Làm mới 9 hội trường nhà văn hóa thôn, xóm, nhà trực công an, hội trường xã. Xây dựng 2 nhà tình nghĩa, Nghinh môn đền Xuân Hòa, sửa chữa đền Phùng Hưng. Tổng mức đầu tư xây dựng trong 5 năm là 5,3 tỷ đồng.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa" được thực hiện đều khắp, hoạt động văn hóa văn nghệ được giữ vững và phát triển nhanh, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng cao. Quỳnh Xuân đã có 7/16 xóm và 3/4 trường học đạt xóm, trường văn hóa, 81 hộ gia đình đạt gia đình văn hóa tiêu biểu, 2 di tích lịch sử được tiếp tục tôn tạo. Hệ thống truyền thanh được nâng cấp và thông tin đến 15/16 xóm, 100 % hộ gia đình được dùng điện thắp sáng.
Sự nghiệp giáo dục đạt được nhiều thành tựu, công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng cao, tạo được ý thức toàn dân chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo dục. Toàn xã có 3.650 học sinh học ở 4 cấp học. Năm 2002, Trường Tiểu học A đạt chuẩn quốc gia, và đạt đơn vị văn hóa. Trường Trung học cơ sở hoàn thành phổ cập năm 2002, đạt đơn vị văn hóa, chuẩn quốc gia năm 2004. Trường Tiểu học B đạt đơn vị văn hóa năm 2005. Hàng năm, các trường đều được trên xếp loại tiên tiến, xuất sắc. Chất lượng dạy và học ngày được nâng lên, trong 5 năm số giáo viên dạy giỏi, học sinh học giỏi các cấp, học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng, gồm 1.806 lượt em, trong đó giỏi cấp tỉnh 50 em, cấp huyện 471 em, cấp trường 1.385 em, học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng 123 em.
Công tác y tế dự phòng được thực hiện tốt, không để dịch bệnh xẩy ra, hoàn thành tốt các chương trình y tế quốc gia. Đội ngũ cán bộ y tế từ trạm đến cơ sở đủ về số lượng, nhiệt tình và có chất lượng. Nhờ sự quan tâm đúng mức tới công tác truyền thông dân số, tỷ lệ phát triển dân số, sinh con thứ 3 giảm; tỷ lệ suy dinh dưỡng năm 2005 là 26,1%, giảm so với năm 2000 là 13,9%.
Công tác đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và phòng chống các tệ nạn xã hội được thực hiện tốt. Trong 5 năm đã huy động 105 triệu đồng quỹ tình nghĩa, gần 18 triệu đồng quỹ vì người nghèo; xây dựng 2 nhà tình nghĩa, tặng 60 sổ tiết kiệm, ủng hộ xây dựng 1 nhà đại đoàn kết, tu sửa 10 nhà đối tượng chính sách xã hội, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,5%.
Công tác Quốc phòng - An ninh luôn được chú trọng quan tâm. Xã xây dựng được 119 tổ tự quản ở các xóm, giải quyết tốt các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Đảng ủy thường xuyên chăm lo giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, nên các vụ việc xẩy ra trên địa bàn ngày càng giảm, không có đơn thư khiếu nại tồn đọng, vượt cấp. Các vụ việc được giải quyết kịp thời, có tình, có lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Kết quả, Công an xã 3 năm liền (2001-2003) được Bộ Công an tặng đơn vị lá cờ đầu "
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc".
Xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh là yếu tố hàng đầu quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội, được Đảng bộ chú trọng quan tâm. Đã thường xuyên chăm lo tới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tỷ lệ đảng viên tham gia học tập các nghị quyết của cấp trên, nghe thời sự đạt 90%. Đã xây dựng và bổ sung quy chế làm việc và 18 tiêu chí để các chi bộ, ngành phấn đấu thi đua hàng năm; Xây dựng chương trình công tác, chương trình kiểm tra tháng, quý, năm đều đặn nghiêm túc, đảm bảo chế độ sinh hoạt từ Đảng bộ đến chi bộ theo quy định Điều lệ Đảng. Đặc biệt trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo, Đảng ủy đã đề ra chủ trương, ban hành các Nghị quyết sát với tình hình địa phương.
Đảng ủy đã thực hiện nghiêm túc quy trình xây dựng và bổ sung quy hoạch điều chỉnh cán bộ, việc bố trí đề bạt, sử dụng cán bộ đảm bảo dân chủ, khách quan; gắn các thế hệ cán bộ và chuyển giao cán bộ hợp lý. Trong 5 năm, cấp ủy đã cử 16 đồng chí đi học chuyên ngành (trong đó 2 đồng chí đại học, 10 đồng chí cử nhân, 4 đồng chí trung cấp), 10 đồng chí trung cấp chính trị, 16 đồng chí sơ cấp chính trị và 8 đồng chí học bổ túc văn hóa trung học. Đội ngũ cán bộ đoàn kết, trưởng thành, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
Công tác đảng được thực hiện tốt, việc phân công nhiệm vụ đảng viên gắn với kiểm tra, thi đua khen thưởng, đổi thẻ đảng viên nên đã phát huy được tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu, tính chiến đấu, và năng lực lãnh đạo của đảng viên. Trong nhiệm kỳ, số đảng viên hoàn thành xuất sắc và hoàn thành nhiệm vụ chiếm 98%, tăng 17% so với Đại hội khóa XXIV. Kết nạp vào Đảng 75 đồng chí, trong đó có 1 đảng viên giáo dân, tăng 26 đồng chí so với nhiệm kỳ trước, có 18 chi bộ kết nạp được đảng viên.
Trong nhiệm kỳ (2001-2005), hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục được chú trọng đổi mới về phương thức, cải tiến về lề lối, bám sát hơn thực tiễn cuộc sống lao động, sản xuất của nhân dân từng thôn xóm. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trong việc cụ thể hóa nhiệm vụ của cấp ủy Đảng trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng -an ninh, Ủy ban nhân dân đã hướng mạnh về cơ sở, tập trung chỉ đạo, điều hành hệ thống chính quyền từ xã tới xóm ngày càng có hiệu quả. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cở sở, phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả tinh thần làm chủ của nhân dân.
Nhiệm kỳ 2001-2005, là nhiệm kỳ mở đầu của thiên niên kỷ mới, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân đạt được là khá toàn diện, phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn và có hiệu quả của Đảng bộ. Là kết quả của sự nổ lực, phấn đấu của mọi người, mọi nhà, phát huy tiềm năng, thế mạnh của quê hương. Kết quả của sự đồng thuận giữa Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân.
Trong không khí tự hào, phấn khởi trước những thành tựu quan trọng trong 20 năm đổi mới của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên mọi miền đất nước.
Từ ngày 24-26/7/2005, Đảng bộ phấn khởi, tin tưởng bước vào Đại hội, Đại biểu khóa XXVI (nhiệm kỳ 2005-2010) với khí thế và quyết tâm mới. Chủ đề Đại hội là:
Phát huy tối đa nội lực, thu hút đầu tư từ bên ngoài, phát huy tốt tiềm năng và lợi thế để tăng tốc kinh tế; phát triển văn hóa xã hội; xây dựng củng cố quốc phòng, anh ninh vững chắc. Xây dựng Quỳnh Xuân trở thành: "Xã giàu mạnh, xã văn hóa".
Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong nhiệm kỳ, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu, làm cơ sở cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ cho nhiệm kỳ mới, đó là:
1. Kịp thời nắm bắt và lựa chọn các vấn đề trọng tâm để quyết định các chủ trương, nhiệm vụ sát đúng với tình hình địa phương và tổ chức chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, dứt diểm.
2. Tạo điều kiện, cơ chế thuận lợi để cán bộ, đảng viên và nhân dân phát huy tích cực năng động, sáng tạo nhất là trong lĩnh vực sản suất, kinh doanh... Từ đó rút kinh nghiệm tổng kết phong trào, nhân rộng điển hình, mô hình tiên tiến.
3. Lựa chọn, bố trí cán bộ trên cơ sở, quy hoạch đào tạo, rèn luyện, thử thách, đảm bảo tiêu chuẩn, năng lực, trình độ và sự tín nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
4. Các nhiệm vụ đề ra, có sự phân công, thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả, nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu. Tinh thần dám nghĩ, dám làm; thái độ quyết liệt của cán bộ là yếu tố quyết định phong trào, quyết định sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực.
5. Mở rộng dân chủ, tăng cường kiểm tra, phát hiện xử lý kịp thời các vi phạm, là yếu tố quyết định tạo lập niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, ý thức thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và địa phương.
Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu chính đến năm 2010.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 15-16%.
+ Tỷ trọng các ngành kinh tế:
- Nông nghiệp 28%.
- Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề 38%, đạt giá trị từ 17-18%/năm.
- Dịch vụ - thương mại 34%, tăng 16-17%/năm.
- Sản lượng lương thực năm 2010 đạt 4.600 tấn, tăng 4%.
- Bình quân lương thực đầu người đạt 306 kg.
- Tổng sản lượng tôm sú năm 2010 đạt 150 tấn, năng suất bình quân 1 - 2 tấn/ha/năm.
- Sản lượng cá nước ngọt năm 2010: 160 tấn, năng suất bình quân 2 - 3 tấn/ha/năm.
- Tổng giá trị thu nhập năm 2010, 150 tỷ đồng.
- Ngân sách hàng năm 12-13%.
- Tỷ lệ hộ gia đình văn hóa 90% trở lên, 100% xóm, trường học, trạm y tế đạt văn hóa; đạt
(xã văn hóa) năm 2007.
- 3 cấp học Mầm non, tiểu học, THCS đạt chuẩn quốc gia.
- Tỷ lệ phát triển dân số giảm hàng năm 0,1%.
- Tỷ lệ hộ dùng nước sạch trên 80% - 90% hộ có công trình hợp vệ sinh.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo dưới 10%.
- Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 80% trở lên, mỗi chi bộ hàng năm kết nạp từ 1 - 2 đảng viên, không có xóm trắng chi bộ.
- 100% cán bộ chủ trì có trình độ chính trị, chuyên môn; trung cấp, cao đẳng, đại học, 50% bí thư, xóm trưởng có trình độ trung cấp chính trị, chuyên môn.
- HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể đạt xuất sắc, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh.
Đại hội bầu BCH và phân công:
Đồng chí: Hồ Văn Ánh, Bí thư
Đồng chí: Nguyễn Duy Thao, Phó Bí thư thường trực
Đồng chí: Cao Xuân Thắng, Phó Bí thư- Chủ tịch UBND.
Thực hiện nghị quyết Đại hội khóa XXVI, với nhiều khó khăn và thách thức, thời tiết thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân. Nhưng với tinh thần và quyết tâm tiến lên trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa xây dựng nông thôn. Đảng bộ và nhân dân giành được nhiều thành tựu.
Kinh tế tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm là 17,7% vượt so với chỉ tiêu đề ra 15-16%. Tổng giá trị sản xuất dự kiến năm 2010 là trên 152 tỷ đồng (chỉ tiêu đề ra 150 tỷ đồng), trong đó tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp là 38,79% giảm 1,81% so với năm 2005, tiểu thủ công nghiệp 25,9% và dịch vụ 35,31%. Bình quân thu nhập đầu người đạt 12,1 triệu đồng, tăng 7,25 triệu đồng so với năm 2005.
Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ, tạo lập 3 vụ sản xuất, áp dụng nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật theo hướng hàng hóa, đưa nhanh giống cây con có chất lượng cao vào sản xuất làm tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích. Năm 2010, tổng sản lượng lương thực đạt 3.750 tấn, giá trị sản xuất đạt gần 18 tỷ đồng.
Chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng công nghiệp. Tổng đàn trâu là 290 con, đàn bò 650 con, đàn lợn 12.008 con, trong đó lợn nái sinh sản 1.200 con, tăng 89%. Bình quân mỗi hộ có từ 4 - 5 con lợn, ước đạt 447 tấn, tăng 10,3%. Đàn hươu có 490 con, tăng 6%, đàn dê có 580 con, tăng 69%, gia cầm 30.000 con, tăng 18,6%. Tổng giá trị ước đạt là 41.206 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2005.
Đảng ủy đã chủ trương đưa 101 ha vào thâm canh nuôi tôm, tăng 57 ha so với năm 2005, năng suất đạt 4, 8 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 428 tấn.
Đất rừng từng bước giao cho các hộ khoanh nuôi quản lý, các mô hình trồng rừng, trồng cây ăn quả, các tổ hợp đã hình thành, đem lại thu nhập khá cho người dân. Việc bảo vệ và chống cháy rừng được đảm bảo.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ có tốc độ phát triển nhanh, xã có 19 công ty TNHH, được thành lập và hoạt động có hiệu quả; có 216 xe ô tô, 170 xe tải, 5 xe khách, 26 xe con, 15 máy xúc đào, thu hút được nhiều lực lượng lao động, tăng thu nhập cho nhân dân. Các tổ hợp, liên gia sản xuất ngành nghề thủ công khá phát triển như: chế biến vật liệu xây dựng, nghề mộc, thợ nề, sửa chữa công nghiệp...
Xây dựng cơ bản đạt khá, trong nhiệm kỳ đã tập trung xây dựng các công trình như: điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà máy nước sạch, hội trường thôn, bê tông hóa kênh mương, cầu cống... tổng mức vốn đầu tư là 15 tỷ đồng. Chất lượng các công trình được đảm bảo, đúng quy trình, quyết toán công khai, kịp thời, tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn.
Công tác văn hóa, thông tin, thể thao ngày càng phát triển và có chất lượng. Đẩy mạnh cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" và cuộc vận động "toàn dân tích cực rèn luyện thể thao theo gương Bác Hồ". Các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng được khơi dậy, hình thức phong phú, đa dạng. Quỳnh Xuân có 5/16 thôn đạt văn hóa, 4/5 trường học, trạm y tế đạt chuẩn văn hóa, 75% gia đình đạt văn hóa. Hệ thống truyền thanh được nâng cấp, thông tin đến 15/16 xóm, 100% hộ được dùng điện thắp sáng, 80% hộ dùng nước hợp vệ sinh, trong đó 50% hộ dùng nước máy.
Công tác giáo dục tiếp tục đạt được nhiều thành tựu về cả quy mô và chất lượng. Đảng ủy đã tăng cường sự lãnh đạo đối với giáo dục và đào tạo, chủ trương xã hội hóa giáo dục thể hiện rõ trong nhận thức và chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ, chính quyền, các cá nhân và tập thể, tạo được ý thức toàn dân chăm lo sự nghiệp giáo dục. Chất lượng giáo dục ngày được nâng lên, Trường tiểu học A, tiểu học B, THCS giữ vững đơn vị văn hóa, chuẩn quốc gia, các trường hàng năm đều được cấp trên xếp loại tiên tiến, xuất sắc. Trong nhiệm kỳ, số học sinh giỏi tỉnh, huyện, trường là 1.106 lượt em, trong đó giỏi cấp tỉnh 47 em, huyện 371 em, trường 688 em. Học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng 310 em.
Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân có những chuyển biến tốt. Đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế được củng cố từ xã đến thôn. Công tác tuyên truyền phòng và chữa bệnh cho nhân dân có những tiến bộ đáng kể. Đã triển khai thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, tiêm chủng mở rộng, phòng chống các loại bệnh xã hội. Các đoàn thể và nhà trường đã phối hợp với các xóm làm tốt công tác vệ sinh môi trường không để xẩy ra dịch bệnh. Ngành y tế nhiều năm liền đạt xuất sắc.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được quan tâm đúng mức. Các đoàn thể đề cao trách nhiệm tuyên truyền, vận động đối tượng trong độ tuổi thực hiện kế hoạch hóa gia đình, triển khai sâu rộng các hình thức lồng ghép truyền thông dân số tới địa bàn dân cư, góp phần nâng cao nhận thức của các đối tượng về các biện pháp phòng tránh thai, sinh đẻ có kế hoạch, vượt chỉ tiêu huyện giao. Nhờ đó, tỷ lệ phát triển dân số còn 16,5%o, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 26,9 %o. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 19%, giảm 7,1% so với năm 2005.
Mặc dù kinh tế còn không ít khó khăn, những việc thực hiện chính sách xã hội luôn được Đảng bộ, chính quyền quan tâm kịp thời, có hiệu quả. Trong nhiệm kỳ đã huy động được 215 triệu đồng quỹ tình nghĩa, 45 triệu đồng quỹ vì người nghèo. Xây dựng 4 nhà, sửa chữa 10 nhà tình nghĩa trị giá 110 triệu đồng, ủng hộ xây dựng một nhà đại đoàn kết, đảm bảo thực hiện kịp thời các chế độ của nhà nước, địa phương.
Quốc phòng - An ninh được Đảng ủy đặc biệt quan tâm, công tác tuyển quân, giao quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu. Các tổ tự quản ở thôn xóm, hoạt động có hiệu quả, đã giải quyết kịp thời mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Lực lượng quân sự, công an được tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng, giải quyết kịp thời các đơn thư, khiếu nại của công dân, không để vượt cấp.
Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng, luôn quan tâm công tác giáo dục giáo dục tư tưởng - chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Coi đó là sợi chỉ đỏ trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo và sự phát triển của địa phương. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, Đảng ủy đã tổ chức kịp thời các đợt học tập quán triệt đến tận các chi bộ, cán bộ, đảng viên, với tỷ lệ tham gia trên 90%. Thông qua các đợt học tập chính trị, tập huấn, bồi dưỡng... trình độ nhận thức, ý thức của đội ngũ, cán bộ đảng viên được phát huy. Tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, thể hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân được nâng lên. Thông qua đó, các chương trình hành động cụ thể đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống cũng được triển khai mạnh mẽ, tích cực và hiệu quả hơn.
Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy thường xuyên được đổi mới; giữ vững nguyên tắc tập thể lãnh đạo và phát huy vai trò cá nhân phụ trách. Duy trì nề nếp sinh hoạt từ Đảng bộ đến chi bộ theo Điều lệ Đảng, chú trọng nâng cao chất lượng chi bộ trong sạch vững mạnh. Năm 2009, 15 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh chiếm 75%, không có chi bộ yếu kém.
Mặt khác, Đảng ủy còn làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và bố trí cán bộ, đảm bảo khách quan, dân chủ công khai. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy đã cử đi đào tạo 16 đồng chí đại học, 6 đồng chí trung cấp chuyên môn, 6 đồng chí trung cấp và 21 đồng chí sơ cấp chính trị.
Công tác đảng viên được quan tâm, việc phân công nhiệm vụ đảng viên gắn với năng lực, trình độ, sức khỏe nên đã phát huy được tinh thần chủ động sáng tạo, chấp hành tốt quy định 19 điều đảng viên không được làm, đã xuất hiện nhiều gương người tốt, việc tốt là đảng viên. Trong 5 năm, tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 65%, hoàn thành nhiệm vụ 27%, kết nạp đảng 54 đồng chí.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cũng có nhiều chuyển biến tích cực trong việc đổi mới hoạt động, nâng cao vai trò của mình. Hằng năm, Hội đồng nhân dân xã đã thực hiện tốt kế hoạch định kỳ tiếp xúc cử tri, đi sát cơ sở nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, từng bước tháo gỡ khó khăn vướng mắc, cũng như ghi nhận, phản ánh những đề xuất, nguyện vọng của nhân dân đối với cấp ủy và chính quyền, góp phần nâng cao chất lượng các kỳ họp. Ủy ban nhân dân luôn đổi mới phương thức điều hành quản lý địa phương, cụ thể hóa Nghị quyết của cấp ủy Đảng và xây dựng quy chế hoạt động, làm tròn trách nhiệm của mình trong việc chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy theo yêu cầu mới. Sự phối hợp giữa chính quyền với mặt trận và các đoàn thể đã đồng bộ, hiệu quả hơn, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, sự thống nhất trong nội bộ được đảm bảo, phát huy được tinh thần, ý thức trách nhiệm và năng lực của cán bộ. Từ đó tạo nên được sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của cấp trên, hoàn thành mục tiêu kế hoạch do địa phương đề ra.
Mặt trận Tổ quốc từng bước được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và chủ trương của ngành cấp trên, củng cố tổ chức, tập hợp phát triển hội viên. Đã phối hợp hoạt động có hiệu quả với chính quyền và các tổ chức thành viên trong việc phát động phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Phong trào xây dựng nhà đại đoàn kết do Mặt trận Tổ quốc phát động đã đi vào cuộc sống, được toàn dân đồng tình ủng hộ. Vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương - giáo, tạo ra và tăng cường sự đồng thuận xã hội. Năm năm liền, quỳnh Xuân được huyện xếp loại đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đoàn thanh niên có nhiều đổi mới trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thu hút đông đảo đoàn viên tham gia, tỷ lệ tập hợp đoàn viên đạt 72%. Thực hiện tốt sự phối hợp với các tổ chức, ban, ngành, đẩy mạnh phong trào thanh niên tình nguyện, thanh niên lập nghiệp, phát triển kinh tế làm giàu chính đáng; tuổi trẻ phát huy truyền thống quê hương; tham gia tích cực các phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, văn nghệ, vệ sinh môi trường, chú trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo dục thiếu niên nhi đồng. Trong 5 năm, Đoàn thanh niên đã huy động được 500 triệu đồng giúp nhau phát triển kinh tế, sản xuất và đạt phong trào vững mạnh xuất sắc.
Hội Phụ nữ: (tỷ lệ tập hợp đạt 93%) đã xây dựng chương trình hành động của tổ chức mình, phối hợp với chính quyền các ban, ngành đoàn thể thực hiện tốt nhiệm vụ ở địa phương. Thực hiện tốt phong trào phụ nữ tích cực lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc với 6 chương trình của Hội. Tạo điều kiện cho hội viên vay vốn phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tổng số vốn trong 5 năm là 3,7 tỷ đồng cho 1300 lượt chị em vay. Ngoài việc chăm lo phát triển kinh tế, Hội tập trung chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo yêu cầu về số lượng và chất lượng. Năm năm liền, hội được xếp loại xuất sắc, được Trung ương Hội tặng bằng khen.
Hội Nông dân: Thường xuyên được củng cố và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, tỷ lệ tập hợp 86,7%. Hội đã quan tâm công tác giáo dục tư tưởng, làm tốt công tác tuyên truyền; phối hợp chặt chẽ với UBND xã, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Trạm khuyến nông tổ chức các lớp tập huấn khoa học kỹ thuật cho hội viên, mạnh dạn dưa các giống cây - con mới vào sản xuất; góp phần tích cực vào việc nâng cao năng xuất cây trồng, đưa đời sống nông dân ngày một đi lên. Trong 5 năm Hội đã tạo điều kiện cho hội viên vay vốn phát triển kinh tế, tổng số vốn 2,7 tỷ đồng, cho 1600 lượt hội viên vay, giải quyết việc làm, nhân rộng các mô hình sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh... 5 năm được xếp loại vững mạnh.
Hội Cựu chiến binh: Với bản chất người lính cụ Hồ, luôn đi đầu trong các phong trào, nhiệm vụ chính trị, trọng tâm của Hội và địa phương. Quan tâm công tác tập hợp hội viên vào tổ chức, tỷ lệ tập hợp 97%. Hội đã làm tốt công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua "cựu chiến binh gương mẫu", hội viên Hội Cựu chiến binh luôn tích cực đi đầu trong các phong trào của địa phương như: xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, động viên thăm hỏi nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn... tổ chức tốt, hiệu quả góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, chống các tệ nạn xã hội ở địa phương, 5 năm liền được xếp loại vững mạnh.
Tổ chức công đoàn luôn quan tâm, động viên đoàn viên lao động sản xuất, tổ chức phối hợp có hiệu quả với chính quyền, các đoàn thể, chăm lo bảo vệ quyền lợi của người lao động. Kịp thời thăm hỏi khi đoàn viên ốm đau, tạo điều kiện cho cán bộ công chức yên tâm công tác. Năm năm liền, Hội được xếp loại xuất sắc.
Các Hội quần chúng xã hội nghề nghiệp như: Hội người cao tuổi, Hội khuyến học, Hội hưu trí, Hội thương binh... đã có nhiều hoạt động phong phú, sinh động, góp phần tích cực vào việc chăm lo những quyền lợi và nhu cầu chính đáng của hội viên, tập hợp động viên toàn thể nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương.
Qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng các cấp và của địa phương đề ra. Trên cơ sở xác định những khó khăn, vướng mắc, tồn tại của mình, Đảng bộ và nhân dân đã phát huy truyền thống cách mạng, đề ra những giải pháp thích hợp, động viên toàn Đảng, toàn dân phát huy lợi thế, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để phát triển và giành được nhiều thành tựu: cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, trong đó sản xuất nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa; chú trọng phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ. Trên cơ sở mở rộng sản xuất, đa dạng hóa các loại hình kinh tế, cơ sở hạ tầng: điện - đường - trường - trạm được quan tâm đầu tư đúng mức, tiếp tục giữ vững ký cương phép nước, các tệ nạn xã hội được đẩy lùi; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đảm bảo ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Thực hiện các hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên, từ ngày 16-18/4/2010,
Đại hội, Đại biểu xã Quỳnh Xuân khóa XXVII, nhiệm kỳ 2010-2015 được diễn ra. Đại hội đã nghe báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội khóa XXVI và mục tiêu, phương hướng nhiệm kỳ 2010-1015.
Chủ đề Đại hội:
Tiếp tục phát huy nội lực, tăng cường thu hút đầu tư, phát huy mọi tiềm năng lợi thế, tranh thủ sự hộ trợ của cấp trên để tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội, xây dựng củng cố quốc phòng, anh ninh vững chắc, xây dựng Quỳnh Xuân trở thành xã giàu mạnh, xây dựng nông thôn mới.
Các chỉ tiêu chính:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm: 15-16%.
Trong đó: Nông – lâm - ngư nghiệp tăng 8-10%.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, xây dựng tăng 18 - 19%, dịch vụ tăng 19 - 20%.
Cơ cấu kinh tế:
Nông – lâm - ngư nghiệp 30%.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, xây dựng 31%, dịch vụ 39%.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2015: 20 - 21 triệu đồng/người/năm.
Giá trị sản xuất bình quân 64 triệu đồng/ha
Sản lượng lương thực năm 2015: 3.900 tấn
Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp 65%
Thu ngân sách tăng hàng năm12-13%
Tỷ lệ hộ gia đình văn hóa 85%, thôn văn hóa 70%.
Tỷ lệ giảm sinh hàng năm 1%o, tỷ lệ sinh con thứ 3 hàng năm giảm 1%.
Trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 còn 4-5%.
Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh năm 2015 trên 90%, 80% hộ có nhà vệ sinh hợp vệ sinh.
Chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 77%.
Mỗi chi bộ mỗi năm kết nạp ít nhất mỗi đảng viên trở lên.
Trình độ chuyên môn của cán bộ chủ trì: 100% đại học, 100% trung cấp chính trị, 100% cán bộ chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên, trong đó 80% đại học và trung cấp chính trị.
Chính quyền, MTTQ và đoàn thể hàng năm xếp loại xuất sắc.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết đề ra, Đại hội đề ra các chương trình trọng tâm là:
1. Vận động học nghề để xây dựng một đến hai làng nghề.
2. Đảm bảo vệ sinh môi trường, xây dựng các công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
3. Tăng cường công tác phòng chống các tệ nạn xã hội.
4. Đầu tư thâm canh để có giá trị sản xuất bình quân từ 64 triệu/ha canh tác.
5. Tiếp tục củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vùng đặc thù.
Để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết, Đại hội nhấn mạnh: phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo, hướng về chi bộ, sâu sát thực tế, nắm bắt kịp thời và chỉ đạo quyết liệt để giải quyết có hiệu quả các vấn đề phát sinh từ cơ sở. Các chủ trương đề ra phải sát đúng, ngắn gọn súc tích, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Chú trọng công tác kiểm tra giám sát. Tăng cường sự phối hợp giữa Đảng ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện nghiêm túc chế độ giao ban, hội ý. Đồng thời phân công, phân nhiệm rõ ràng, cụ thể đối với các đơn vị, cá nhân, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu. Xây dựng mô hình điển hình, tiên tiến, tiến hành sơ, tổng kết nhân ra diện rộng. Giải quyết công việc phải quán triệt phương châm nói đi đôi với làm.
Thực hiện cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Bộ Chính trị phát động từ tháng 11/2006. Qua 4 năm triển khai thực hiện Đảng bộ đã làm tốt các khâu tổ chức tổ chức học tập, các chuyên đề, thảo luận, tổ chức lấy ý kiến của quần chúng góp ý cho tổ chức Đảng và đảng viên, viết thu hoạch, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, nhất là đã gắn nội dung học tập vào sinh hoạt ở chi bộ, cơ quan đơn vị và đã tổ chức được nhiều hoạt động "làm theo" như: chống lãng phí, chống quan, liêu tham nhũng, thực hành cải cách hành chính; gắn các nội dung của cuộc vận động với thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; đăng ký làm theo của từng cán bộ, đảng viên gắn với nhiệm vụ chính trị được giao. Đã tạo được sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của từng cán bộ, đảng viên, nâng cao vai trò, trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng được các phong trào, các điển hình tiên tiến ở các ngành, các chi bộ, trong Đảng và nhân dân, thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng các cấp, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành và phân công:
Đồng chí: Cao Xuân Thắng - Bí thư.
Đồng chí: Hồ Văn Ánh - Phó Bí thư thường trực
Đồng chí: Nguyễn Duy Thao - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa XXVII đặt ra rất nặng nề, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân phải nổ lực, đoàn kết, khắc phục khó khăn, phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương, sớm đưa Quỳnh Xuân thành một xã giàu mạnh, hoàn thành mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, thành lá cờ đầu trong toàn huyện, góp phần cùng nhân dân toàn huyện, cả nước "xây dựng Quỳnh Lưu trở thành huyện giàu và kiểu mẫu".
Qua bao thăng trầm biến đổi của lịch sử, nhiều lần thay đổi tên làng: Từ Vân Tụ...đến Song Quỳnh, Quỳnh Xuân, Quỳnh Tùng, Quỳnh Xuân, Phường Quỳnh Xuân. Trên mảnh đất này từ ngàn xưa đã có con người sinh sống, các thế hệ cha, ông đã đổ mồ hôi, xương máu, từng chung lưng đấu cật, chia ngọt xẻ bùi, khai thác đầm lầy, bãi hoang, cải tạo, thau chua rửa mặn, ngọt hóa đồng ruộng, từng bước tạo dựng làng xóm, yên vui
Mỗi đoạn đường, khúc sông, ngõ xóm đã in đậm hình ảnh thân thương của ông, cha từng vật lộn, chống chọi với thiên nhiêm khắc nghiệt, đấu tranh sinh tử chống áp bức bóc lột, chống ngoại xâm để bảo vệ quê hương, đất nước.
Trên mảnh đất có nhiều dòng họ, từ các nơi về đây sinh cơ lập nghiệp, xây dựng xóm làng ở ven sông, sườn núi, quanh năm lúc nhàn rỗi” vui chơi cùng cảnh, sơn, thủy hữu tình”.
Qua nhiều thế hệ các dòng họ khác nhau, nhiều đời hay ít, tất cả đều gắn bó với nhau: “Lúc tối lửa, tắt đèn”, cùng nhau giữ gìn, bảo tồn, phát triển những giá trị vật chất và tinh thần mà các thế hệ ông cha đã để lại. Như một lẽ tự nhiên, mảnh đất bình dị như bao vùng quê khác, trở thành máu thịt. Họ là nông dân thuần nông quanh năm làm bạn với sương gío, ruộng đồng, hoặc là những anh học trò nghèo chuyên đèn sách, mơ một ngày gặp vận “Của Khổng, sân trình” rộng mở, trở thành ông Nghè, ông Cống làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Nghề nghiệp của họ tuy khác nhau, song các thế hệ con người nơi đây đều cùng chung một chí hướng là yêu quê hương, đất nước. Theo dòng chảy của lịch sử dựng nước và giữ nước vùng đất này đã sản sinh ra nhiều người con ưu tú cho dân tộc trên tất cả các lĩnh vực văn hóa – xã hội, tên tuổi của họ đã đi vào lịch sử và luôn là niềm tự hào của các thế hệ người dân Quỳnh Xuân xưa và nay.
Cuối thế kỷ XIX, Thực dân Pháp xâm lược đánh chiếm nước ta, phong trào Cần vương chống Pháp phát triển rầm rộ trên cả nước. Trên vùng đất Thanh – nghệ Tĩnh có cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng kéo dài nhiều năm, nhân dân Quỳnh Xuân nhiệt liệt hưởng ứng tham gia nghĩa quân chiến đấu nhằn giành lại non sông đất nước.
Trước, trong và sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), nhiều thanh niên yêu nước đã hưởng ứng tham gia phong trào Đông du – Đông kinh nghĩa thục của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, gia nhập các tổ chức yêu nước với khát vọng giành lại giang sơn. Hoài bão lớn nhưng con đường di lại quá chênh vênh, rốt cuộc, đành phải ngận ngùi nhìn cảnh non sông chìm đắm trong những năm trường nô lệ, nhưng tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh cứu nước đó rất đáng trân trọng trong thời điểm tình thế lịch sử hết sức khó khăn. Trong bối cảnh lịch sử đó Nguyễn Aí Quốc lãnh tụ thiên tài của dân tộc đã xuất hiện, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin một cách chân chính, sáng tạo áp dụng vào điều kiện khách quan đối với một nước thuộc địa nửa phong kiến, Người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả công dân của nước Việt Nam họ hiểu một cách sâu sắc rằng: Chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện mới giải phóng cho họ thoát khỏi mỗi tủi nhục lầm than. Trong sự biến đổi kỳ diệu đó, ngày 14/11/1945, chi bộ Đảng Tùng Mai được thành lập, bí thư đầu tiên là đồng chí Hoàng Nguyên Nậm. Chi bộ đã lạnh đạo nhân dân xây dựng và củng cố chính quyền cùng như các đoàn thể, ổn định đời sống, chống đói nghèo lạc hậu, chống giặc ngoại xâm. Chi bộ đã vận động thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, không ngừng củng cố xay dựng chính quyền cũng như hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội. Trong những năm tháng có nhiều thử thách cam go, kinh nghiệm chưa nhiều, chính quyền còn non trẻ vai trò tiền phong của mỗi đảng viên trong chi bộ vẫn là trung tâm đoàn kết toàn dân và là nhân tố quyết định của sự nghiệp cách mạng trên quê hương. Tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, cán bộ , Đảng viên trong chi bộ thực sự phát huy vai trò trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước. Các đảng viên đã nêu cao phẩm chất đạo đức của người cộng sản, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, cùng toàn dân làm nên những kỳ tích trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, góp phần to lớn cùng cả dân tộc đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Xây dựng củng cố phát triển hậu phương, chi viện tối đa cho sự nghiệp giaỉ phóng dân tộc.
Chi bộ đảng và nhân dân hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của mình. Biết bao cán bộ đảng viên và nhân dân đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ không trở về trong niềm vui chiến thắng đó là những tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng trong cuộc trường chinh “3000 ngày không nghỉ”.
Nhiều cán bộ đảng viên thời chống Pháp đã lần lượt ra đi theo qui luật tự nhiên, nhưng ý chí, nghị lực và tinh thần xả thân vì sự nghiệp cách mạng mãi mãi sáng ngời. Qua thực tiễn lạnh đạo, tổ chức xây dựng quê hương, vừa kháng chiến vừa kiến quốc (1945 - 1954), cán bộ, đảng viên đã rút ra nhiều bài học bổ ích: Khi cán bộ, đảng viên và nhân dân cùng chung sức, chung lòng, chung ý chí thì mọi khó khăn thử thách đều có thể vượt qua. Cán bộ, đảng viên phải tận tụy gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào, phải biết hy sinh quyền lợi cá nhân để phục vụ cho cách mạng thì tổ chức đảng ngày càng vững mạnh, càng có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân.
Hai mươi mốt năm đánh Mỹ và thắng Mỹ (1954 - 1975) là quãng thời gian lịch sử ghi nhận sức mạnh phi thường của toàn Đảng, toàn dân. Đây chính là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam ngời sáng hơn bao giờ hết. Trong hào khí chung của dân tộc, Đảng bộ và nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng của quê hương hoàn thành nhiệm vụ suất sắc.
Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, nông dân bám ruộng đồng, rừng núi làm ra hạt thóc, củ khoai chi viện cho tiền tuyến. Dân quân du kích ngày đêm bám trận địa, đào hào, công sự kéo pháo, trực chiến bắn máy bay Mỹ...Đảng bộ và nhân dân rất đỗi tự hào là một trong những xã sớm được Nhà nước phong tặng phần thưởng cao quí “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Bốn mươi năm(1975 - 2015), Quỳnh Xuân cùng với cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là chặng đường toàn đảng, toàn dân đứng trước muôn vàn thách thức. Chính trong khó khăn gian khổ đó Đảng bộ và nhân dân đã tìm ra hướng đi phù hợp với đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đưa quê hương vượt qua khó khăn để tiến lên phía trước.
Mặc dù qui mô công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn bước đầu có khởi sắc nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đó là phải đấu tranh với tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó... những điểm đó cần khắc phục để vươn lên hòan thành mục tiêu mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra. Bảy mươi năm Đảng bộ và nhân dân đã tạo nên những thay đổi kỳ diệu trên quê hương. Bao cán bộ, Đảng viên và thanh niên ưu tú đã ngã xuống trên mọi miền đất nước, chiến trường Lào, Căm phu chia, biên giới để có độc lập cho non sông đất nước. Bao cán bộ đảng viên đã và đang đem hết tài năng trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước. Con đường đi đến hiện đại, văn minh, dân chủ công bằng còn lắm vất vả gian lao, nhưng đảng bộ và nhân dân tiếp tục hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, quyết tâm đưa Phường trở thành điển hình của thị xã Hoàng Mai. Trang sử đang được viết tiếp cho nhiều thế hệ mai sau.